Chúng tôi làm phim Tháng 5 - những gương mặt

Đầu tháng 4-1975, cả nước hồi hộp theo dõi tin tức chiến sự từ miền nam gửi ra. Xưởng Phim truyện Việt Nam được lệnh cấp trên động viên tất cả đội ngũ nghệ sĩ tổ chức thành bốn đoàn làm phim tài liệu lên đường tham gia chiến dịch. Tôi được phân công làm đạo diễn của một đoàn. Lúc này ta đã giải phóng tới Nha Trang nên tuy gọi là đi B, nhận quân trang quân dụng như người đi B, nhưng chúng tôi có thể yên tâm lên đường trên bốn chiếc ô-tô mới toanh chạy thẳng theo quốc lộ 1 không phải hành quân mang nặng một ngày nào.

Nhân dân Sài Gòn chào đón quân giải phóng. Ảnh: HỨA KIỂM
Nhân dân Sài Gòn chào đón quân giải phóng. Ảnh: HỨA KIỂM

Trước khi đi chúng tôi được nghe đồng chí Cục trưởng Phan Trọng Quang truyền đạt chỉ thị dặn dò của đồng chí Tố Hữu. Tôi còn nhớ lời truyền đạt như sau: Các đồng chí có thể gặp các văn nghệ sĩ trong ấy. Họ có thể đi ô-tô mà các đồng chí thì đi bộ. Nhưng các đồng chí đừng tự ái, hãy dang tay ra với họ trên tinh thần đoàn kết, hòa hợp dân tộc... Có nghĩa là lúc đó, đầu tháng 4-1975 ở trên còn dự kiến tới một khả năng ta có thể vào Sài Gòn trong bối cảnh của một chính phủ liên hợp các bên. Tôi không quan tâm lắm tới chuyện sẽ vào Sài Gòn trong bối cảnh nào. Tôi chỉ biết chắc chắn rằng trong chuyến đi này tôi sẽ được về Huế - quê hương mà tôi xa cách đã 25 năm...

Chúng tôi chỉ ở lại Huế hai ngày rồi phải đi tiếp. Vào tới Nha Trang, các đoàn dừng lại để nhận phân công đi các mũi. Đoàn chúng tôi lăn bánh xuôi theo quốc lộ 1 vào Phan Rang gặp Khu ủy khu V. Khi tới nơi trình giấy giới thiệu xong, các đồng chí trong khu ủy cho biết tình hình diễn biến rất nhanh. Lệnh của trên là phải giải phóng Sài Gòn trước ngày 1-5. Họ khuyên chúng tôi đừng bỏ lỡ cơ hội này.

Trưa ngày 30-4, khi nằm ở Phan Thiết bật đài lên, tôi nghe tin Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh cho binh sĩ hạ súng. Thời cơ đã đến. Chúng tôi lập tức lên xe thẳng tiến về Sài Gòn.

8 giờ tối 30-4, xe chúng tôi đã lăn bánh trên xa lộ Biên Hòa. Tôi có cảm tưởng xe đi quá chậm. Càng gần tới Sài Gòn xe càng đi chậm hơn vì bị tắc nghẽn. Cuối cùng chúng tôi đã lọt được vào thành phố sáng rực ánh đèn. Một cảm giác choáng ngợp, bàng hoàng đến nghẹt thở làm chúng tôi không ai nói với ai một câu nào. Quả tình chúng tôi không biết đi đâu bây giờ trong cái thành phố xa lạ mênh mông này. Nhưng rồi trấn tĩnh lại, tôi nói với anh em:

- Tôi có biết một nơi. Đó là Dinh Độc Lập. Tôi có xem trên ảnh. Bây giờ ta đến đó.

Sau một hồi hỏi đường, hết quẹo trái rồi lại quẹo phải, cuối cùng một cô gái phóng Honda đi trước tự nguyện dẫn đường cho chúng tôi đến Dinh Độc Lập. Chúng tôi xuống trình giấy giới thiệu của Ban Thống nhất Trung ương nhưng không có ai tiếp vì lúc này chưa có ai chỉ huy ở đây cả. Các sư đoàn ai đến trước vào trước, ai đến sau vào sau, mỗi đơn vị chiếm lĩnh một góc sân trong dinh Độc Lập. Riêng tòa nhà chính do trung đoàn xe tăng canh gác, đó là trung đoàn vào dinh Độc Lập đầu tiên theo đường quốc lộ 1. Họ cấm chúng tôi không được lên tầng hai nơi giam giữ nội các Dương Văn Minh, còn ngoài ra muốn vào đâu cũng được. Ngước nhìn lên nóc dinh Độc Lập, tôi thấy cả hai lá cờ Mặt trận: một to, một nhỏ bay trong gió. Lá cờ nhỏ là lá cờ của chiếc xe tăng đầu tiên tiến vào Dinh Độc Lập. Lá cờ to là lá cờ được giao cho cánh quân đánh từ Củ Chi lên mà người ta tưởng sẽ vào sớm nhất. Nào ngờ mũi xe tăng tiến theo quốc lộ 1 lại vào đầu tiên, không gặp trở ngại nào đáng kể. Không một chiếc cầu nào trên quốc lộ bị đánh sập.

Nhìn quanh sân tôi thấy rất nhiều ánh lửa bập bùng trong đêm. Quang cảnh gợi nhớ những trạm giao liên trên Trường Sơn. Các chiến sĩ đang thổi lửa nấu cơm. Một số đang tắm giặt ở vòi phun nước. Một vài anh lính trẻ cưỡi thử Honda chạy vòng vèo trong sân. Sau một hồi tìm kiếm, chúng tôi tìm được một bộ đèn pha cầm tay của một phóng viên quay phim nào đó để lại trong phòng họp báo của Dinh Độc Lập. Chiếc đèn pha cầm tay đó đã giúp chúng tôi quay những thước phim đầu tiên. Tôi đặt tên phim là: Tháng 5 - những gương mặt (vì những cảnh quay đó được thực hiện vào lúc 1 giờ sáng mồng 1-5)...

Đêm ấy tôi nằm một mình trong Lễ đường ở tầng một của dinh Độc Lập, lòng bàng hoàng như trong giấc mơ. Thậm chí tôi không hiểu nổi tại sao tôi lại đang có mặt ở đây, vào giờ khắc lịch sử này. Đêm ấy, tôi không sao chợp mắt được. Tôi nghĩ đến cha, sao người không còn sống để được hưởng cái giây phút có một không hai này. Tôi thương cha tôi, thương mẹ tôi, thương hàng vạn, hàng triệu người đã ngã xuống suốt dọc chiều dài của đất nước trong hàng chục năm qua. Gần sáng, tôi thấy hai anh Thép Mới và Trần Kiên ở Báo Nhân Dân bước vào hội trường. Các anh hết sức ngạc nhiên khi thấy tôi ở đây.

Sáng 1-5, Ban quân quản chính thức tiếp quản dinh Độc Lập. Việc làm đầu tiên của Ban quân quản là ra lệnh cho tất cả mọi người phải lập tức rời khỏi dinh. Khi ra khỏi cổng dinh, tôi thấy đoàn các anh Hải Ninh và Bùi Đình Hạc đã có mặt ở trước vườn hoa. Đoàn anh Trần Vũ nghe tin Sài Gòn được giải phóng cũng bỏ luôn Buôn Ma Thuột về Sài Gòn. Mỗi đoàn một việc, tất cả các máy quay phim đều xả hết tốc lực. Từ Dinh Độc Lập chúng tôi chuyển đến ở tại khách sạn Caravelle. Đêm đó, trên lầu chín của khách sạn, chúng tôi đã gặp hầu hết các phóng viên ngoại quốc đang có mặt tại Sài Gòn. Trong những ngày căng thẳng vừa qua họ đều rút về đây, nơi được coi là an toàn hơn cả vì khách sạn này là của người Pháp. Sau giây phút ngạc nhiên trước sự có mặt bất ngờ của chúng tôi, một vài người lân la đến chuyện trò. Người đầu tiên làm quen với chúng tôi là phóng viên của Hãng thông tấn Pháp AFP. Ông cho biết, tất cả phóng viên có mặt tại đây đều có mặt tại Dinh Độc Lập sáng 30-4. Một người nào đó rỉ tai tôi cho biết người phóng viên đã quay được cảnh chiếc xe tăng húc đổ cổng Dinh Độc Lập cũng đang có mặt ở trong khách sạn này, đề nghị tôi thông báo cho Ban quân quản biết để tịch thu những thước phim đó. Nhưng tôi đã không làm như vậy.

Hôm sau, chúng tôi được phép trở lại dinh Độc Lập để quay lễ thả các thành viên trong nội các Dương Văn Minh bị tạm giữ từ ngày 30-4... Từ hôm đó, sáng sáng chúng tôi vác máy quay ra đường, quay bất cứ những gì muốn quay. Nội dung chủ yếu của đoàn nào cũng chỉ xoay quanh hai chủ đề: Niềm hân hoan của người dân Sài Gòn vừa được giải phóng và tàn dư của một xã hội sống dưới ách thực dân kiểu mới. Chúng tôi liên tục chạm trán nhau trong khi quay. Đoàn nào cũng quay các cuộc tuần hành của sinh viên, thanh niên trên đường phố để nói lên niềm hân hoan và đoàn nào cũng săn lùng quay những người ăn mày để tố cáo chế độ thực dân. Mấy người ăn mày ở chợ Bến Thành trong những ngày ấy ngạc nhiên không hiểu sao lại được các nhà quay phim miền bắc ưu ái như vậy. Các ổ xì ke, gái mại dâm cũng được quan tâm không kém vì đấy là những biểu hiện xấu xa của chế độ cũ, không quay nhanh sợ sau này không có mà quay. Tuy sống trong vùng kiểm soát của chế độ thực dân kiểu mới, nhưng trong nhiều gia đình mà tôi được tiếp xúc vẫn giữ được những nền nếp truyền thống của một gia đình Việt Nam. Tôi ngạc nhiên nhìn thấy các em nhỏ khoanh tay lễ phép chào hỏi những người lớn tuổi. Ngược lại, bà con ở đây cũng không kém ngạc nhiên khi tiếp xúc với chúng tôi, những "Việt cộng" miền bắc mà theo hình dung trước đó của họ hẳn dữ tợn, gớm ghiếc lắm. Trong những ngày ở Sài Gòn, tôi được gặp khá nhiều anh chị em văn nghệ sĩ ở đây, đặc biệt là nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, một người khi còn ở Hà Nội chúng tôi đều biết tiếng và hâm mộ. Nhưng người đầu tiên trong giới văn nghệ sĩ mà tôi gặp lại là nữ diễn viên điện ảnh Thẩm Thúy Hằng. Những ngày chiến sự vừa qua chị cùng chồng là ông Nguyễn Xuân Oánh chuyển đến ở tại khách sạn Caravelle. Không biết ai trong đoàn phim nói cho ông Oánh biết tôi là con trai của bác sĩ Đặng Văn Ngữ, nên mấy hôm sau ông đem đến cho tôi xem những bức ảnh cũ chụp trong thời gian ông du học tại Nhật Bản. Tôi hết sức ngạc nhiên thấy có rất nhiều ảnh ông chụp chung với cha tôi. Ông cho biết, khi cha tôi làm nghiên cứu sinh ở Tô-ki-ô thì ông đang học đại học, và cùng sinh hoạt trong Hội Việt kiều do cha tôi làm chủ tịch.

Sau ba tháng, đoàn chúng tôi trở ra Hà Nội. Khi ra tới Huế, vừa tới đầu cầu Tràng Tiền tôi đã nghe tiếng loa phóng thanh ầm ĩ, và một tốp người rất đông đang đứng tập thể dục. Tôi biết rằng nếp sống mới đã đến với quê hương tôi. Bộ phim tài liệu Tháng 5 - những gương mặt đã ra đời sau chuyến đi ấy. Hai năm sau, tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ VI tổ chức vào năm 1977 tại TP Hồ Chí Minh, phim Tháng 5 - những gương mặt được trao Giải Bông sen bạc. Đó là giải thưởng đầu tiên của tôi trong điện ảnh.

Vậy mà đã 40 năm trôi qua. Tôi vẫn nhớ như mới hôm qua giây phút hân hoan của mọi người dân Sài Gòn khi nghe Thượng tướng Trần Văn Trà, Trưởng ban quân quản thành phố Sài Gòn nói trong buổi lễ mít-tinh mừng chiến thắng: Thắng lợi này là thắng lợi của toàn thể nhân dân Việt Nam. Tất cả mọi người dân Việt Nam đều là người chiến thắng. Chỉ có đế quốc Mỹ là kẻ thất bại mà thôi.

Câu nói của Tướng Trà đã làm nức lòng hàng triệu con tim Việt Nam và đến nay, sau bao biến động của lịch sử, vẫn còn nguyên giá trị.