Thủ thực buổi đầu gặp nhạc sĩ Nguyễn Thành, tôi cứ ấn tượng mãi. Nước da ngăm ngăm, nụ cười hiền lành, khi ăn, khi nói đều chậm rãi, từ tốn, chân thành mộc mạc. Có một lần, tôi đánh bạo hỏi ông Khắc Tuế, Trưởng đoàn Ca múa Tổng cục Chính trị bấy giờ, cũng là bạn rất thân thiết với nhạc sĩ Nguyễn Thành: “Anh ấy là người vùng nào hả anh?”. Anh Khắc Tuế khi ấy phá lên cười: “Ông ấy là người Hà Nội chính cống đấy. Nhưng bởi có nhiều năm ở vùng Tây Bắc, là văn công Sư đoàn 308, lại là tác giả của những bài hát như Qua miền Tây Bắc hay Tiếng sáo Mèo gửi người chiến sĩ, cho nên không ít người lầm tưởng...”.
Thế rồi sau này, khi đã quen, có một đêm, ở nhà Nguyễn Thành, anh thân tình pha trà mời và kể tôi nghe về tuổi thơ ấu và quê hương của anh: “Mình là đứa con của những đường phố Hà Nội. Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, khi ấy mình đang là một cậu học trò nghèo ở Hà Nội. Có một ngày, cờ đỏ sao vàng và khúc hát Tiến quân ca cuốn hút chúng mình theo những đoàn tuần hành biểu tình, đi từ Nhà hát Lớn, tràn vào Bắc Bộ phủ giành chính quyền”.
Cuộc đời chiến sĩ của anh bắt đầu từ ngày ấy, và rồi ngay sau đó Nguyễn Thành trở thành trung đội phó của một trung đội thiếu sinh quân với chiếc mũ ca-lô có đính ngôi sao viền vàng, quần soóc và bít tất xanh, áo sơ-mi vàng. Âm vang của đời lính này là nhịp giày gõ đều trên mặt đường và tiếng lách cách của khẩu súng khai hậu bên thắt lưng… Khi kháng chiến bùng nổ, anh theo đoàn quân Tây tiến lên mặt trận, tham gia những trận đọ sức với giặc Pháp xâm lược. Chính những năm tháng này đã làm Tây Bắc ngấm vào anh, để rồi một ngày có bài hát Qua miền Tây Bắc. Nhưng trước đó, anh cũng đã từng có những sáng tác về Tây Bắc…
Tôi nhớ khi kể đến đây, đôi mắt Nguyễn Thành trở nên xa vời và anh cất tiếng se sẽ hát: Vượt suối băng sông lưng núi mây ngàn/Đoàn quân Tây tiến dồn chân bước... Rồi anh tiếp tục mạch chuyện: “Chiến trường đầu tiên, ít nhất cũng có một lần, với vốn nhạc non nớt thuở học sinh , mình đã viết bài ca đầu tiên về Tây Bắc như thế. Đó là năm 1946, mới chân ướt chân ráo lên với núi rừng. Năm 1949 mình trở thành cán bộ của văn công xung kích Đại đoàn Quân tiên phong, tức Sư đoàn 308 sau này.
Thu Đông năm 1952, mình cùng đội văn công trở lại Tây Bắc tham gia chiến dịch. Đêm trước ngày giải phóng Nghĩa Lộ, đội văn công xung kích với 13 người dừng chân giữa lưng đèo Khâu Vác. Đào hầm, nhóm lửa, ngồi bàn tán với nhau về chiến dịch, rồi ôm nhau nằm chờ sáng, mình không chợp được mắt. Xúc động lớn nhất với anh em là có lệnh cử bộ đội lên giải phóng Tây Bắc. Trong thư Bác gửi, nói nhiều đến nỗi thống khổ của nhân dân Tây Bắc - miền đất và con người mà mình đã có bao kỷ niệm… Cảm xúc ùa đến, nối tiếp những lời ca cùng cây đàn măng-đô-lin trong tay gảy theo.
Qua miền Tây Bắc được hiện lên chữ, lên giấy trong đêm ấy, bên ngọn lửa bập bùng giữa căn hầm đào vội, trong tiếng nhịp chân rầm rập của bộ đội vào chiến dịch cùng tiếng gió lạnh hú dài trên đỉnh đèo…”. Viết xong, mệt quá, Nguyễn Thành ngủ thiếp đi. Sáng dậy, thấy các bạn Văn Hoán, Phùng Đệ, Vũ Hướng… những người bạn trong đội ngồi hát say sưa. Họ đã nhặt được bản thảo của anh từ trong bếp lửa! Cũng may, than đã nguội, nên giấy không bị cháy…
Ngay sáng ấy, bài hát lập tức được trình diễn phục vụ bộ đội vào chiến dịch, với măng-đô-lin, ghi-ta, sáo tre… và tác giả cùng các bạn đứng hát ngay trên đỉnh đèo, phục vụ những đoàn quân ra trận. Bài hát như ngọn lửa, qua mỗi người lính, lại bùng lên. Và ngọn lửa ấy dần lan suốt các đoàn quân, đi hết chiến dịch này sang chiến dịch kia… Trẻ chăn trâu thấy các chú bộ đội hát, cũng nhập tâm và í ới hát theo tiếng mõ trâu vang khắp cánh đồng Tây Bắc giải phóng. Lại có cả những bác xẩm cũng dùng nó để hát ngay trong nội thành Hà Nội lúc ấy còn bị giặc chiếm. Bài hát còn được truyền đến những thế hệ sau, ấy là lớp chiến sĩ “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” đã dùng nó như một “Chiến sĩ ca” trong những năm đi đánh giặc…
Năm 1954, nhạc sĩ Nguyễn Thành cùng nhiều văn nghệ sĩ đi phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ. Một chiều, trong hầm Bộ Tổng chỉ huy, Đại tướng Võ Nguyên Giáp bảo anh hát cho nghe hai bài, trong đó có Qua miền Tây Bắc. Nghe hát xong, Đại tướng nói: “Cậu nào sáng tác bài này đáng được thưởng!”. Nhạc sĩ Lương Ngọc Trác báo cáo với Đại tướng, Nguyễn Thành là tác giả ca khúc. Đại tướng siết chặt tay anh hỏi chuyện và sau đó ít lâu, anh được tặng thưởng Huân chương Chiến công…
Tôi nhớ khi kể đến đây, một nụ cười bừng sáng gương mặt Nguyễn Thành. Ôi Tây Bắc! Tôi hiểu những năm tháng nơi ấy đã để lại nhiều ấn tượng sâu đậm trong tâm hồn và cuộc đời nhạc sĩ Nguyễn Thành. Khuôn mặt anh thuần phác, thâm trầm. Những gì mãnh liệt nhất thường ấp ủ bên trong, ít được thổ lộ thành lời. Anh nói về mình khó khăn, nhưng đã nói, thì thật thà, nhiều khi hồn nhiên dễ yêu, dễ mến. Cuộc đời chiến sĩ gắn với cuộc đời nghệ thuật của anh từ ấy. 15 năm sau, anh từ Trường Sơn ra Hà Nội, công tác tại phát thanh Quân đội ở 58 Quán Sứ. Thú vị là trong cơ quan, cũng lại có một nhà thơ, một người lính Sư đoàn Quân tiên phong là nhà thơ Tạ Hữu Yên.
Tự bao giờ hai người lính 308 thành tri âm tri kỷ. Họ hay cùng nhau lững thững từ phố Quán Sứ ra bờ Hồ, khoan khoái ngồi xuống một ghế đá, bật lửa châm thuốc hút, và nhắc nhớ những kỷ niệm sư đoàn xưa.
Rồi thời gian sau, nhiều người yêu âm nhạc “choáng” về một sáng tác mới của Nguyễn Thành - ca khúc Cảm xúc tháng 10 với lời thơ của Tạ Hữu Yên. Hay quá, đẹp quá, rạo rực lòng người quá. Bài hát viết về Hà Nội, về Sư đoàn 308 thân thiết từ ngày chống thực dân Pháp của các anh, với lời ghi đầu bài hát: “Kính tặng Sư đoàn Quân tiên phong”. Bài hát mở đầu bằng bầu trời Hà Nội mùa thu tháng 10 trong xanh, năm cửa ô đón đoàn quân chiến thắng trở về tiếp quản Thủ đô: Không thể nói trời không trong hơn/Và mắt em xanh khác ngày thường/Khi đoàn quân tiến về mùa thu ấy/Nhịp trống rung ba mươi sáu phố phường. Và tiếp theo là ký ức hào hùng của những ngày tháng từ giã Hà Nội sau 60 ngày đêm quyết tử và tin vào ngày chiến thắng cuối cùng: Đêm, cái đêm anh rút qua gầm cầu/Anh đã hẹn ngày mai trở lại/ Sóng sông Hồng vỗ bờ xa hát mãi/Đỏ niềm tin là khúc khải hoàn ca.
Thú thực lúc đầu tôi nghe bài hát này qua tiếng hát Lê Dung, thấy rạo rực lạ thường. Rồi nghe qua tiếng hát các nghệ sĩ: Kiều Hưng, Quang Thọ, rồi Quang Lý, Trọng Tấn, Tố Uyên, Vũ Thắng Lợi…, điều lạ kỳ rằng thấy dường như ai hát bài hát này cũng đều rất hay, ca sĩ thế hệ nào hát bài hát này cũng đều rất tuyệt vời. Mới ngộ ra rằng, những bài hát hay là vậy, dường như đều chắp cánh cho mọi ca sĩ. Như một định lý: Bài hát hay thường làm cho mọi ca sĩ hát đều hay hơn!
Một sớm thu trong đất thắm sao vàng/Năm cửa ô xòe năm cánh rộng/Đoàn quân về nhấp nhô như sóng/Những ngôi nhà dường muốn cao thêm… Có lẽ với ca khúc này của Nguyễn Thành, người ta yêu Hà Nội hơn vì Cảm xúc tháng 10, yêu những người lính Sư đoàn Quân tiên phong ngày ấy hơn vì ca khúc. Có gì hơn một Hà Nội tháng 10 với những người lính trở về, hoa Ngọc Hà tươi thắm và một cuộc đời mới đã bắt đầu… Cũng vì thế, Nguyễn Thành không chỉ là nhạc sĩ của miền Tây Bắc, mọi người nhớ nhiều đến anh bởi có một Hà Nội mùa thu như thế.