Xuất khẩu lao động "chui" - Hệ lụy khôn lường

Lao động “chui” - Bài toán nan giải

Gần 200 nghìn người đi lao động thời vụ “chui” tại Trung Quốc, chưa kể hàng chục nghìn lao động thị trường Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan... trốn ra ngoài làm bất hợp pháp, rất đông người đi du lịch nước ngoài rồi bỏ trốn ở lại kiếm việc. Con số này chưa giảm, khiến “làn sóng” xuất khẩu lao động “chui” ngày càng phức tạp, khó kiểm soát, đang là thách thức lớn trong phòng ngừa.

Cán bộ tuyên truyền cho người dân về tác hại của việc xuất cảnh lao động bất hợp pháp.
Cán bộ tuyên truyền cho người dân về tác hại của việc xuất cảnh lao động bất hợp pháp.

Nhận diện lao động “chui”

Khảo sát số lao động bất hợp pháp sang Trung Quốc tại 10 địa phương trọng điểm phía bắc cho thấy, hơn 45% là người dân tộc thiểu số, chủ yếu ở độ tuổi lao động. “Top” đầu là Lạng Sơn (82.894 người), Hà Giang (47.676 người), Cao Bằng (24.035 người) tiếp đến là Lào Cai, Quảng Ninh, Điện Biên, Lai Châu, Bắc Giang... Trình độ dân trí và thu nhập thấp, thiếu việc làm, không có tay nghề trong khi nhiều doanh nghiệp, lâm nông trường ở Trung Quốc cần tuyển ngày càng nhiều lao động phổ thông làm việc giản đơn như bốc vác, trồng rừng, chăn nuôi, làm đồ nhựa, thu hoạch mía... với giá nhân công cao (bình quân 200-300 nghìn đồng/ngày), hơn nhiều lần thu nhập ở nhà. Vì vậy, trừ một số người dân giáp biên sang lao động đi về trong ngày, đa số lao động vào sâu nội địa Trung Quốc làm thuê vài tháng, nhiều trường hợp làm cả năm. Cao điểm nhất lúc giáp hạt, nông nhàn, càng đông người vượt biên tranh thủ làm thuê “thời vụ”.

Có “cầu” ắt sinh “cung”. Ban đầu chỉ một số nhóm người tự phát cùng nhau vượt biên đi làm chui theo kiểu người đi trước giới thiệu, bảo lãnh người đi sau; về sau xuất hiện nhiều “cò” dụ dỗ, lôi kéo người nhà, người thân quen tổ chức thành đường dây đưa người vượt biên trái phép kiếm lời. Đội ngũ môi giới ngày một đông, chủ yếu là các đối tượng giáp biên móc nối với chủ người Trung Quốc hoặc phụ nữ lấy chồng Trung Quốc về nước lùng sục dắt mối. Do nhận thức kém, ít va chạm, lại cả tin, trong khi các đối tượng dùng bẫy “kinh tế” thổi phồng quá mức, hứa hẹn bố trí việc làm hấp dẫn, có mức lương ổn định, nhàn hạ, chi phí thấp... cho nên nhiều người dễ dàng bị lôi kéo, rủ rê mà không lường được hậu quả, tác hại.

Tự ý sang Trung Quốc lao động, không thông qua các cơ quan, doanh nghiệp có chức năng, đương nhiên quyền lợi người lao động (NLĐ) không được bảo đảm. Họ phải đối mặt muôn vàn rủi ro: nợ lương, quỵt lương, bị quản lý chặt chẽ, đối xử ngược đãi, đánh đập, cưỡng bức lao động, có thể bị bắt giữ, đẩy đuổi về nước bất cứ lúc nào, thậm chí bị tai nạn lao động, tử vong. Chủ lao động không muốn liên đới về pháp luật, ràng buộc trách nhiệm, dễ dàng bóc lột sức lao động và chiếm đoạt tiền công nên không ký hợp đồng mà chỉ thỏa thuận miệng. Phần lớn bị ép làm công việc nặng nhọc, ngày ba ca (hơn 12 giờ), báo động là không ít phụ nữ bị lừa bán vào động mại dâm, ép lấy chồng.

Lao động bỏ trốn khỏi nơi đang làm việc theo hợp đồng, cư trú bất hợp pháp ở nước ngoài cũng nơm nớp lo sợ bị đuổi về nước, phải trốn chui lủi, chống chọi với hàng loạt rủi ro luôn rình rập khi quyền lợi không được bảo hộ. Hệ lụy người xuất khẩu lao động (XKLĐ) bỏ trốn quá đông đã tạo hình ảnh xấu trong mắt bạn bè quốc tế, giá XKLĐ của NLĐ Việt Nam bị hạ thấp, thậm chí một số thị trường còn từ chối tiếp nhận.

Tháo gỡ “rào cản”

Nỗ lực vào cuộc của Chính phủ, các bộ, ban, ngành cùng cấp ủy, chính quyền các địa phương đã phần nào “hạ nhiệt”, ngăn chặn thực trạng người dân xuất cảnh lao động bất hợp pháp và người XKLĐ bỏ trốn. Hàng loạt giải pháp cấp bách và lâu dài đã được triển khai đồng bộ như hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, chính sách lao động; đẩy mạnh truyền thông nâng cao nhận thức để người dân cảnh giác thủ đoạn của tội phạm, chấp hành nghiêm quy định xuất nhập cảnh và lao động, tăng cường phối hợp cơ quan chức năng các nước điều tra, bắt giữ tội phạm, giải cứu, hồi hương nạn nhân; quản lý khu vực biên giới, quản lý lao động xuất khẩu, tích cực “xóa đói, giảm nghèo” gắn với phát triển kinh tế - xã hội địa phương...

Tuy nhiên, quá trình thực thi các giải pháp vẫn đang gặp nhiều thách thức, rào cản. Đó là truyền thông, phổ biến giáo dục pháp luật còn dàn trải, chưa sâu rộng nên người nghèo, người dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa thiếu hụt thông tin phòng, chống mua bán người, xuất nhập cảnh, chính sách XKLĐ, những nguy cơ, rủi ro có thể xảy ra khi lao động trái phép ở nước ngoài; quản lý NLĐ di cư, quản lý nhân hộ khẩu còn sơ hở, hiệu quả đấu tranh chưa cao, chế tài xử lý người XKLĐ “chui” khó thực thi, chậm rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật liên quan, chưa có văn bản thỏa thuận hợp tác lao động giữa Việt Nam và Trung Quốc, cho nên thiếu ràng buộc và trách nhiệm trong phối hợp đấu tranh, ngăn chặn; chưa tạo ra các chương trình phát triển kinh tế - xã hội bền vững.

Di cư lao động quốc tế là quy luật khách quan toàn cầu. Do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế, thất nghiệp tăng, nhu cầu tìm kiếm việc làm cao, số người dân sang Trung Quốc lao động thời vụ tăng theo. Để giảm thiểu cần sự chung tay vào cuộc quyết liệt, mạnh mẽ, khắc phục kịp thời những “lỗ hổng” nói trên cùng với thực hiện các biện pháp khả thi, sát hợp hơn. Giải pháp quản lý không nhằm mục đích hạn chế dịch chuyển lao động qua đường biên bằng các biện pháp hành chính mà cần thông qua các biện pháp cốt lõi là nâng cao dân trí, truyền thông phòng ngừa, phát triển kinh tế - xã hội, tạo công ăn việc làm ổn định, tăng thu nhập cho NLĐ. Đòi hỏi tất yếu phải đẩy mạnh đầu tư cơ sở vật chất, hỗ trợ hướng nghiệp, dạy nghề, tạo công ăn việc làm để nâng cao mức sống, giảm bớt chênh lệnh thu nhập giữa lao động ở Việt Nam và ở Trung Quốc nhằm xóa bỏ căn nguyên tình trạng này.

Với những công dân vẫn muốn đi làm hợp pháp ở Trung Quốc, cần có cơ chế chính sách giải quyết theo phương thức XKLĐ ngắn hạn chính ngạch song hành thực hiện các biện pháp quản lý, hỗ trợ và tư vấn, bảo hộ quyền lợi chính đáng cho NLĐ. Trước mắt ở cấp địa phương, cần triển khai cấp bách đàm phán và ký kết “Biên bản thỏa thuận nguyên tắc về quản lý lao động phổ thông giữa các tỉnh biên giới Việt Nam với các tỉnh, khu tự trị biên giới Trung Quốc”; về lâu dài sớm đàm phán với Trung Quốc nhằm ký kết văn bản thỏa thuận giữa hai chính phủ, tạo hành lang pháp lý đưa người Việt Nam sang lao động thuận lợi. Sự thống nhất và quy định rõ ràng trong phối hợp sẽ tạo điều kiện quản lý chặt chẽ cả NLĐ và chủ sử dụng lao động, khai thác thêm một thị trường XKLĐ ngắn hạn tiềm năng một cách chính quy, bài bản từ khâu cung cấp thông tin thị trường lao động, chính sách pháp luật, cung ứng lao động cho các đối tác nước ngoài, ràng buộc trách nhiệm khi sử dụng lao động Việt... góp phần phát triển kinh tế - xã hội mỗi bên.

Tự ý sang Trung Quốc lao động, không thông qua các cơ quan, doanh nghiệp có chức năng, đương nhiên quyền lợi người lao động (NLĐ) không được bảo đảm.

Trong số gần 200 nghìn người đi lao động thời vụ, nữ chiếm 60%; 55% trình độ tiểu học; 20% không biết chữ, 55% làm ruộng; 30% không nghề, 30% đi lao động thông qua môi giới, thời gian lao động dưới 6 tháng (60%); 65% đi qua đường tiểu ngạch, đường mòn.

Theo Cục Quản lý lao động Ngoài nước (Bộ LĐ-TB&XH) cần triển khai một số giải pháp: Giao UBND các tỉnh và các huyện biên giới trách nhiệm theo dõi, quản lý và bảo vệ quyền lợi cho NLĐ sang làm việc tại Trung Quốc, chính quyền cấp xã nắm tình hình NLĐ đi làm qua biên giới; tuyên truyền giải thích về chính sách, pháp luật của Nhà nước về quản lý đường biên, báo cáo huyện và tỉnh và trực tiếp xử lý các vấn đề phát sinh nhỏ. Nghiên cứu thành lập trung tâm hỗ trợ, tư vấn lao động qua biên giới làm việc ở các tỉnh biên giới với sự tham gia của Lao động, Biên phòng, Công an tuyên truyền, cung cấp thông tin, hỗ trợ người dân phòng ngừa, đối phó với những nguy cơ, rủi ro khi gặp phải.

Có thể bạn quan tâm