Học tập tư duy và phong cách báo chí Hồ Chí Minh

NDO -

Báo Nhân Dân trân trọng giới thiệu tham luận của Nhà báo Phan Quang tại Hội thảo khoa học quốc gia “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” do Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương, Báo Nhân Dân, Tạp chí Cộng sản, Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương đồng tổ chức, diễn ra tại Hà Nội, ngày 12/5.

Quang cảnh Hội thảo. (Ảnh: Thành Đạt)
Quang cảnh Hội thảo. (Ảnh: Thành Đạt)

Tư duy và phong cách báo chí Hồ Chí Minh cụ thể hóa tư tưởng của Người về văn hoá: “Văn hóa là một mặt cơ bản của xã hội”, “Văn hóa là một mặt trận”, “Văn hóa mới kết hợp hài hoà, đúng đắn truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế”. Báo chí là bộ phận cấu thành văn hóa, đồng thời là một phương tiện xây dựng, truyền bá, thực thi văn hóa trong cuộc sống hằng ngày. Báo chí là đội quân đi đầu trong công tác tư tưởng, với chức năng ban đầu là tuyên truyền, cổ động, tổ chức, hướng dẫn quần chúng đấu tranh. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ”. Rất nhiều lần, Người trở lại và nhấn mạnh ý ấy: “Cây bút là vũ khí sắc bén, bài báo là tờ hịch cách mạng động viên quần chúng đoàn kết, đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới...”, “Ngòi bút là vũ khí sắc bén trong sự nghiệp phò chính trừ tà...”(1).

Từ những ngày đầu sống ở nước ngoài, từng qua lại nhiều nước phát triển ở các châu lục, Bác Hồ sớm nhận ra vai trò và tác động to lớn của báo chí trong đấu tranh xã hội bất kỳ dưới chế độ chính trị nào. Trong quá trình tìm đường giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc, Người tiếp cận các tác phẩm của Lê-nin, và tâm đắc câu vị lãnh tụ lỗi lạc phát biểu khá lâu trước ngày Cách mạng tháng Mười Nga thành công: “Cái mà chúng ta nhất thiết phải có lúc này là một tờ báo chính trị. Trong thời đại ngày nay, không có tờ báo chính trị thì không thể có phong trào gọi là chính trị... Không có tờ báo thì không thể tiến hành có hệ thống cuộc tuyên truyền, cổ động có nguyên tắc và toàn diện...”(2)

Tư tưởng ấy là động lực thôi thúc Hồ Chí Minh trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng tìm cách thành lập cho bằng được tờ báo của mình với tôn chỉ phục vụ sự nghiệp của dân tộc. Nó động viên Người không ngừng phấn đấu để trở thành nhà báo lớn nhất nước Việt Nam trong mọi thời đại, một cây bút ngang tầm những tên tuổi nổi bật về văn hóa và báo chí thế giới.

Sau những năm bôn ba nhiều nơi, Nguyễn Ái Quốc đến Vương quốc Anh và sống ở đó một thời gian với mục đích tìm hiểu, học tập những cái hay của một nền văn hóa tiêu biểu ở châu Âu, nơi ra đời sớm nhất chế độ nghị viện và cũng là một trong những vùng có mấy tờ báo đầu tiên của nhân loại. Cuối năm 1917 Bác Hồ đến Pháp và dừng chân lại sinh sống tại Paris. Đây là khoảng thời gian Bác đặt chân vào nghề báo. Sau những bước chập chững học nghề, Người viết những bài báo đầu tiên bằng tiếng Pháp hầu hết đăng trên các báo cánh tả của chính trường Pháp. Chỉ sau ba năm sau, được sự ủng hộ và giúp đỡ của các chí sĩ Việt Nam tại Pháp và sự hợp tác của bạn hữu quốc tế, Người chủ trì việc xuất bản báo Le Paria (Người cùng khổ), số đầu ra ngày 1/4/1922. Nguyễn Ái Quốc vừa làm chủ nhiệm, chủ bút, quản lý vừa là người thực hiện.

Jean Lacouture (1920-2015), nhà văn, nhà báo, nhà viết tiểu truyện nổi tiếng ở Pháp, tác giả người nước ngoài đầu tiên xuất bản cuốn tiểu sử Hồ Chí Minh khi Bác Hồ còn tại thế (1967) nhận định: “Sự đóng góp của Nguyến Ái Quốc cho tờ Le Paria rất to lớn. Ngày nay đọc lại các bài của ông (đăng trên báo ấy) ta vẫn thấy vô cùng hứng thú... Văn phong của Nguyễn là văn phong của một nhà luận chiến tài ba”(3). Song song với việc chủ trì tờ Le Paria, Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị xuất bản tờ báo tiếng Việt dành cho người Việt Nam sinh sống ở Pháp, báo Việt Nam hồn, trước khi bí mật lên tàu sang Liên Xô. 

Những ngày sinh sống tại Paris, dưới sự giám sát gắt gao của mật thám Pháp, Người cộng tác với một số tờ báo có thanh thế và đông độc giả nhất tại Pháp hồi bấy giờ như L’Humanité (Nhân đạo), La Vie ouvrière (Đời sống thợ thuyền), Le Populaire (Người bình dân)... Sang Liên Xô, người cộng tác với nhiều tờ báo xô viết qua tiếng Nga. Thời gian àm việc tại Đức, Người viết báo tiếng Đức. Về Trung Quốc, Người là cộng tác viên của Cứu vong nhật báo, đồng thời viết bài đều đều cho mấy tờ báo tiếng Anh. Đặc biệt Người sáng lập báo Thanh niên, số 1 ra ngày 21/6/1925, khơi dòng báo chí cách mạng Việt Nam. Cống hiến lịch sử của báo Thanh niên là chuẩn bị về lý luận, chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam.

Khi từ Trung Quốc, Người tạm lánh sang Thái Lan do Tưởng Giới Thạch trở mặt, phá vỡ sự cộng tác giữa Quốc dân đảng với Đảng Cộng sản Trung Quốc, và trong thời gian hoạt động tại nước này Người cho ra mấy tờ báo tiếng Việt Thân ái, Đồng thanh tập hợp, đoàn kết Việt kiều sinh sống tại đất nước triệu voi hướng về Tổ quốc. Năm 1943, vừa đặt chân về đất tổ sau nhiều năm bôn ba gian khó tại các nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc (nay dùng tên Hồ Chí Minh) sáng lập báo Việt Nam độc lập tại Việt Bắc nhằm mục đích: “Kêu gọi nhân dân trẻ với già/ Đoàn kết một lòng như khối sắt/ Để cùng nhau cứu nước Nam ta”. Trong những ngày toàn dân ta sôi nổi tiến hành Cách mạng tháng Tám năm 1945, chưa đến ngảy đọc Tuyên ngôn độc lập 2/9/1945, Người đã quyết định và chỉ đạo việc cho ra đời Đài phát thanh quốc gia Tiếng nói Việt Nam, tiếp ngay sau đó Hãng thông tấn quốc gia Thông tấn xã Việt Nam.

Với tư cách nhà báo, Hồ Chí Minh sử dụng điêu luyện cây bút báo chí, đồng thời viết kịch nói, truyện ngắn, tùy bút văn học, vẽ ký họa, làm thơ... Bác Hồ không coi mình là nhà báo chuyên nghiệp mà chỉ là “người có nhiều duyên nợ với báo chí”, nhưng trên thực tế Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh dưới hàng trăm bút danh khác nhau (4), là một nhà lý luận báo chí, một cây bút uyên thâm, đa dạng, sắc bén, tài hoa nữa, với hàng loạt tác phẩm chuẩn xác về nội dung, hùng hồn về lý luận, mẫu mực trong cách sử dụng ngôn từ phù hợp đối tượng của từng tờ báo, lúc nào cũng có sức đi sâu vào quần chúng, thức tỉnh lòng người, khiến quân thù khiếp sợ. Bác Hồ nói Người không có ý làm nhà lý luận về báo chí, truyền thông, song những phát biểu của Người về văn hóa, thông tin, báo chí là một hệ thống quan điểm mang tính kinh điển về báo chí Việt Nam vào những giai đoạn khác nhau. Không riêng những người làm báo, các nhà nghiên cứu các lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, thông tin, giáo dục, đối ngoại... đều có thể học tập, tham khảo tư tưởng báo chí của Người.

Tư tưởng báo chí Hồ Chí Minh bao trùm nhiều lĩnh vực.

Tư duy của Người về vai trò của báo chí cách mạng trùng hợp ý kiến các nhà tư tưởng lớn, những người sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin: Các Mác, F. Ăngghen, V.I. Lênin. Trong nhiều trường hợp Hồ Chí Minh gọi báo chí là “vũ khí sắc bén của cách mạng”,“đội quân xung kích trong công tác tư tưởng...” Chức năng của báo chí là “tuyên truyền, huấn luyện, giáo dục, tổ chức dân chúng...” qua các phương tiện thông tin bằng những thủ pháp nghề nghiệp. Đây là cách diễn đạt mới, rộng hơn câu nói của Lênin:“Báo chí là người tuyên truyền, cổ động, người tổ chức tập thể”. Bác Hồ coi trọng chức năng giáo dục của báo chí, đặc biệt sau ngày tổng khởi nghĩa thành công, khi Việt Nam đã trở thành một nước độc lập, dân chủ. Trên các báo, sách của ta sau năm 1945, đặc biệt sau ngày hòa bình lập lại trên nửa nước năm 1954, thường xuyên xuất hiện lời kêu gọi nhân dân“Học tập và làm theo báo Đảng” ở nơi dễ bắt mắt nhất, kèm theo luôn là câu “Mong bạn đọc góp ý, phê bình”.

Cần phải nói, khái niệm về chức năng giáo dục cuả báo chí trên thế giới xuất hiện muộn hơn nhiều. Giữa thập niên 1970, trước sự bùng nổ của truyền thông và văn hóa, nghệ thuật đại chúng coi việc phục vụ giải trí, thu nhiều lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu, Đại hội đồng UNESCO sau mấy kỳ thảo luận ra quyết định thành lập Ủy ban quốc tế về các vấn đề của truyền thông. Ủy ban gồm 16 thành viên hầu hết là những tên tuổi lẫy lừng trên thế giới (5), do nhà báo, luật sư, chính khách Sean McBride, cựu Ngoại trưởng nước Cộng hòa Irlande làm Chủ tịch. Ông là người được trao Giải Nobel và Giải Lê-nin vì hòa bình. 

Sau mấy năm hoạt động, được sự hưởng ứng và tham gia nghiên cứu, phản biện của hàng trăm tổ chức và cá nhân thể hiện qua 100 văn bản, Bản báo cáo của Ủy ban được trình Đại hội đồng UNESCO (gọi tắt là Báo cáo McBride) dày gần 370 trang được Đại hội đồng UNESCO chính thức thông qua sau mấy kỳ thảo luận (6), và cho xuất bản thành sách tháng 2/1980.

Báo cáo MacBride khẳng định: Truyền thông có 8 chức năng chính, trong đó có 2 chức năng Giáo dục và Thúc đẩy văn hóa. Báo chí chuyển tải kiến thức nhằm phát triển trí tuệ, hình thành tính cách con người, giúp con người có đủ năng lực, thích ứng với mọi giai đoạn của một đời người. Về Văn hóa, báo chí phổ cập các công trình nghệ thuật, góp phần bảo tồn các di sản văn hóa của nhân loại, mở rộng tầm nhìn của con người qua việc khơi dậy đầu óc tưởng tượng và kích thích nhu cầu thẩm mỹ, sáng tạo.

Tôn chỉ của báo chí Việt Nam trước sau vẫn là phục vụ sự nghiệp “kháng chiến và kiến quốc, đoàn kết toàn dân, thi đua yêu nước; xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà, bảo vệ hoà bình thế giới...”. Hồ Chí Minh nhấn mạnh, báo chí phải “đấu tranh cho tự do, chân lý, cho tương lai tươi sáng của loài người...” Trong tư duy báo chí của Người, đối tượng của báo chí, truyền thông không bó hẹp trong một số tầng lớp vốn có điều kiện dễ dàng tiếp cận thông tin, mà báo chí phải hướng về “đại đa số dân chúng”, vì đông đảo nhân dân, bao gồm và đặc biệt là những người học vấn không cao lắm. 

Tính chất báo chí, vẫn theo Bác Hồ, trước hết là “tính quần chúng và tinh thần chiến đấu...”. Ngay vào thời nay ta quen gọi thời bao cấp, khi cả hệ thông báo chí nước nhà được Đảng và Nhà nước chăm lo cho mọi thứ, từ nhu cầu về tài chính, cơ sở hạ tằng đến các điều kiện tác nghiệp, Người đã khẳng định “Báo chí cũng là một ngành kinh tế”. Báo chí không chỉ có trách nhiệm phục vụ các nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế mà báo chí còn phải lo về mặt kinh tế cho hoạt động của chính mình. 

Quan điểm báo chí Hồ Chí Minh coi trọng “tự do tư tưởng”. Người viết: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do... Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý... Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm ra chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền phục tùng chân lý”. Vậy thì chân lý ở đâu, chân lý là cái gì, chân lý thể hiện ở những mặt nào? Người giải đáp: “Chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân”

Về phong cách báo chí, Chủ tịch Hồ Chí Minh mong muốn báo chí, truyền thông ta phải “gần gũi quần chúng”. Nhà báo cần tâm niệm suốt đời: “Vì ai mình viết? Viết cho ai? Viết để làm gì?”. Văn phong báo chí phải “giản đơn, dễ hiểu, phổ thông, hoạt bát...” nhưng tuyệt nhiên không thông tục. Bác Hồ dặn bài báo phải đúng đồng thời phải hay,"viết có hay mới có đông người đọc”.. Báo chí cần phấn đấu để khỏi bị chê là “báo lá cải”. Song song với yêu cầu giản đơn, dễ hiểu, Bác Hồ căn dặn nhà báo hãy cố gắng “viết cho văn chương, cho người đọc thấy hay, thấy văn chương người ta mới thích đọc...”

Báo chí trong bất kỳ bối cảnh nào cũng vẫn là “diễn đàn của nhân dân”. Sản phẩm báo chí mang dấu ấn cá nhân, nhưng làm ra một tờ báo là công sức, tâm huyết của cả tập thể. Tính tập thể của nghề báo trong tư duy Hồ Chí Minh không đơn thuần thể hiện về mặt nội dung, mà còn ở lối làm việc hài hòa của cả tòa báo, bao gồm “người viết, người in, người sửa bài, người phát hành... ăn khớp với nhau...” Đi đôi với việc đề cao tính tập thể, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi trọng tài năng cá nhân. Người khuyến khích mọi người nên biết vận dụng thế mạnh của mình, phát huy biệt tài của mình khi tác nghiệp.

“Nói đến báo chí trước hết phải nói đến những người làm báo”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm việc xây dựng đội ngũ những người làm báo, và tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp của họ, Hội Nhà báo Việt Nam. Người nhiều lần nhấn mạnh vai trò “chiến sĩ” của người làm báo, đòi hỏi nhà báo phải kiên định lập trường, giữ vững quan điểm, không ngừng nâng cao trình độ về mọi mặt. Nhà báo phải là người chí công vô tư, có hiểu biết rộng và nhất là cái tâm trong sáng. Nhà báo cần thường xuyên nâng cao đạo đức nghề nghiệp. Hễ có dịp gặp các nhà báo là Người nhắc nhở chuyện này. 

Bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng về đạo đức báo chí. Người là một người làm báo với nội dung chân chính, cao cả nhất của từ ấy. Khi cầm trên tay cây bút hay gõ máy chữ viết báo, Người không quan tâm đến việc đề cao tên tuổi hay vì lợi ích riêng. Người khuyên các nhà báo chớ nên nghĩ viết báo là để “lưu danh thiên cổ”. Suốt cả cuộc đời cầm bút, Người luôn hướng về cái đích mang trí tuệ, tâm huyết và tài năng của mình phục vụ nghiệp cách mạng, phục vụ nhân dân, vì lợi ích của nhân loại.

Để đạt được đỉnh cao trong sáng ấy, trở thành một nhà báo lớn, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã kiên trì học tập, “khổ luyện suốt đời”. Khi mới đặt chân đến Pháp, do nhu cầu đấu tranh vì độc lập, tự do của đất nước, nhận thấy sự cần thiết trở thành một nhà báo viết tiếng Pháp giỏi, Nguyễn Ái Quốc khởi đầu bằng cách tập viết những mẩu tin ngắn, “mỗi tin chỉ có năm ba dòng”. Khi mẩu tin hoặc bài viết ngắn được đăng lên báo, Người mang ra so sánh bản thảo mình viết với bản đã được tòa soạn biên tập, từ đó tìm hiểu xem các bậc đàn anh đã chỉnh sửa ở những chỗ nào. Nhờ thông qua cách vừa làm vừa học, sau chưa đến hai năm tính từ ngày đặt chân lên đất Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã là tác giả nhiều bài chính luận, tiểu phẩm, điều tra... có giá trị về nội dung, hấp dẫn trong cách thể hiện, làm kinh ngạc nhiều nhà trí thức Pháp có dịp đọc Người. Cho dù Bác Hồ nhận mình chỉ là “người có nhiều duyên nợ với báo chí”, cả cuộc đời của Người, từ những ngày phải trốn tránh kẻ thù cho đến khi đảm đương nhiều trọng trách quốc gia, thời gian luôn eo hẹp, Người không rời cây bút. Năm 1955 có hai ngày đầu năm, Tết dương lịch và Tết Nguyên đán Ất Mùi. Trong khoảng thời gian ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh dù bề bộn đại sự quốc gia, đã viết tới 52 bài báo, chỉ tính riêng những bài đăng trên báo Nhân Dân . 

Chủ tịch Hồ Chí Minh dành cho báo chí và những người làm báo mỗi quan tâm và lòng ưu ái đặc biệt. Đó là một đức tính, một phong cách không phải nhà lãnh đạo kiệt xuất nào trên thế giới xưa nay ai cũng có thể có.

------------

(1) Tất cả những câu của Hồ Chí Minh đóng trong ngoặc kép và in chữ nghiêng đều được trích dẫn lời Bác Hồ từ Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, HN.
(2) Lê-nin, Sách Làm gì?
(3) Jean Lacouture, Hồ Chí Minh, Nxb. Le Seuil, Paris 1967.(4) Bảo tàng Hồ Chí Minh sưu tầm được 174 tên gọi, bí danh bút danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, HN, 2015.
(5) Như Hubert Beuve-Méry, nhà báo, người sáng lập báo Le Monde, Giám đốc Trung tâm Nâng cao nghiệp vụ báo chí Pháp; Gabriel Garcia Marquez người Colombi, nhà báo, nhà văn, Giải thưởng Nobel về Văn học; Michio Nagai, nhà báo và nhà xã hội học, cựu Bộ trưởng Bộ Giáo dục Nhật Bản, cây chính luận của nhật báo Ashahi Simbun; Sergei Losev, Tổng Giám đốc Hãng Thông tấn TASS, Liên Xô; Mocktar Lubis, nhà báo Indonesia, Chủ tịch Tổ chức Báo chí châu Á FAP, vv...
(6) Báo cáo được xuất bản năm 1980 qua hai nhà xuất bản tại Dakar và Paris. Bản tiếng Pháp nhan đề Muôn vàn tiếng nói, mối một hành tinh - truyền thông và xã hội hôm nay và ngày mai.