Tính từ đầu năm 2018, đã có ít nhất bốn bức tranh thời Mỹ thuật Đông Dương được người Việt trong nước thắng đấu trên các sàn quốc tế, với mức giá khá cao. Thôn nữ Bắc Kỳ vẽ năm 1935 của họa sĩ Nam Sơn Nguyễn Văn Thọ đạt mức giá 205 nghìn EUR (tương đương 5,7 tỷ đồng). Mẫu tử của họa sĩ Lê Phổ, vẽ trong thập niên 1940, đạt mức giá 5,16 triệu HKD (xấp xỉ 15 tỷ đồng). Người bán ốc vẽ năm 1929 và Em bé bên chú chim vẽ năm 1931 của họa sĩ Nguyễn Phan Chánh đạt mức giá lần lượt 4,66 triệu HKD và 6,7 triệu HKD (xấp xỉ 134,5 tỷ và 20 tỷ đồng).
Hội họa Việt Nam vẫn khó vượt mốc giá một triệu USD
Năm 2017, lần đầu tiên trong lịch sử mỹ thuật hiện đại Việt Nam, có một bức tranh được bán qua sàn đấu giá cán mốc một triệu USD. Thưa nhà nghiên cứu Ngô Kim-Khôi, dấu mốc này có ý nghĩa gì, trong việc tạo sức bật cho các bước giá tiếp theo?
Phải nói lại là trong khi giá trị vật chất của hội họa các nước - ngay với nhiều quốc gia cùng khu vực Đông - Nam Á luôn phát triển theo chiều lũy tiến thì tranh Việt vẫn dậm chân tại chỗ từ rất nhiều năm. Đó là hậu quả của nạn tranh giả đã từ lâu hoành hành, do lòng tham và sự thiếu ý thức của một số người. Sự kiện tác phẩm Đời sống gia đình của Lê Phổ vượt mức triệu đô-la là một dấu mốc quan trọng, có tính giải tỏa tâm lý ở góc độ: vậy là đã có một họa sĩ Việt Nam thật sự vươn ra thế giới. Đây cũng là dấu mốc hy vọng của tranh Việt, vì tranh càng đạt giá cao, lần bán sau giá sẽ vượt cao hơn nữa, đó là quy luật chung trên thị trường.
Ông có thể khái quát vị trí của hội họa Việt Nam, thời kỳ Mỹ thuật Đông Dương trong thị trường mỹ thuật quốc tế hiện nay? Nếu tạm gọi đó là một dòng tranh riêng, vì sao dòng tranh này xuất hiện ngày càng nhiều tại các phiên đấu giá của các hãng lớn, đặc biệt xuất hiện nhiều hơn tại Pháp?
Từ khi Trường Mỹ thuật Đông Dương được sáng lập, tranh Việt Nam đã có một chỗ đứng riêng biệt không thể trộn lẫn. Trong khoảng thời gian 1925 - 1945, trường đã cho ra đời rất nhiều tác phẩm giá trị. Chúng ta cứ xem ảnh chụp các triển lãm của hội Chấn hưng Mỹ thuật và Kỹ nghệ (SADEAI) sẽ thấy nội lực sáng tác của các họa sĩ thời ấy rất mạnh. Họa sĩ Nguyễn Phan Chánh, trong cuộc triển lãm cá nhân đầu tiên tại Địa Ốc Ngân Hàng Hà Nội vào năm 1933 đã bán hết 40 bức tranh chỉ trong có ba ngày! Thử hỏi, nếu 40 tác phẩm này xuất hiện trên thị trường quốc tế sẽ gây kinh ngạc như thế nào? Cho đến nay, ngoài một vài cái tên riêng lẻ được cho là nổi bật của thế hệ họa sĩ đương đại, khi nói đến tranh Việt, người ta luôn nhắc đến tác phẩm thời kỳ Mỹ thuật Đông Dương như dòng tranh đắt giá nhất.
Ba tên tuổi nổi bật có tranh bán trên thị trường quốc tế nhiều nhất là Lê Phổ, Mai Trung Thứ, Vũ Cao Đàm đều định cư tại Pháp vào thập niên 1930, có điều kiện sáng tác và triển lãm tốt hơn so với các họa sĩ trong nước khi ấy đang phải chịu ảnh hưởng không nhỏ của chính sự và chiến tranh. Thông thường, tranh Đông Dương thời ấy được giới thưởng ngoạn ngoại quốc, đặc biệt là người Pháp, mua cho sưu tập riêng hoặc làm quà tặng lẫn nhau, rồi đem về đất nước của họ. Những bức tranh này có khả năng được gìn giữ cao hơn những tác phẩm cùng loại trong nước, thường rơi vào tình trạng thiếu thị trường, bị thất lạc một phần, bị hủy hoại do không có điều kiện bảo quản tốt...
Từ mốc tranh một triệu USD nói trên, giá trị tranh Đông Dương được chú ý, với một góc nhìn trân trọng hơn. Từ sau mốc đó, mỗi dịp tiếp xúc với các nhà sưu tập tranh bên Pháp khi được mời đến thẩm định, tôi thấy ý định bán tranh của họ cũng tăng thêm. Điều này hẳn phần nào kiến giải cho thực tế là tranh Đông Dương từ lâu được giữ kín, nay đã có động lực để xuất hiện thường xuyên trên thị trường đấu giá. Cá nhân tôi hy vọng sau này còn có nhiều tác phẩm vượt qua dấu mốc ấn tượng này. Điều này tùy thuộc rất nhiều vào ý thức của người Việt. Quan trọng nhất là tôn trọng sáng tạo nghệ thuật, không làm tranh giả nữa.
Ông khiến cho tôi hiểu rằng, chỉ có người Việt làm giả tranh của họa sĩ Việt?
Ta cùng nghĩ xem: nếu người nước ngoài làm giả tranh của họa sĩ Việt Nam thì liệu có thể tạo nên một hương vị, tinh thần Á Đông xuyên suốt trong tranh? Tranh giả phần rất lớn được làm từ trong nước, rồi theo nhiều con đường để đi ra nước ngoài, “lộng giả thành chân” là thế.
Trách nhiệm của giới mỹ thuật trong nước
Trở lại với những ồn ào gần đây chung quanh việc mua bán tranh thời mỹ thuật Đông Dương, việc thiếu một truyền thống nghiên cứu phê bình chuyên nghiệp ở ngay trong nước là nguyên do nền tảng cho việc nảy sinh những phát ngôn cảm tính, gây xáo trộn không đáng có trong thông tin và nhận định về giá trị và sự thật giả của các sáng tác mỹ thuật có tiềm năng đạt giá trị thương mại cao. Ông có bình luận gì về ý kiến này?
Tôi nghĩ, đó là việc làm vô trách nhiệm. Thẩm định tranh không thể theo cách chỉ ngồi một chỗ và “thánh phán bàn phím”. Có rất nhiều người nhờ tôi thẩm định qua hình ảnh, nhưng chúng chỉ có thể cho tôi một ý niệm mỹ về tranh chứ không cho tôi biết tranh đó thật hay giả. Người thẩm định ngoài những kiến thức chuyên môn nhất định, không chỉ phải biết nhìn mà còn phải biết cách sờ vào tranh, lật qua lật lại, xem trước xem sau, đôi khi còn phải sử dụng những kỹ thuật khoa học để phân tích và kết luận.
Nạn phê bình giả hiệu theo ông có tác hại như thế nào đến sự phát triển của thị trường mỹ thuật nói chung, đến bước giá của một tác phẩm nói riêng?
Tôi cho rằng những tuyên bố hồ đồ ấy có thể nguy hại đến mỹ thuật nói chung và thị trường tranh Việt nói riêng, không kém gì tệ nạn tranh giả vốn dĩ đã đưa nền mỹ thuật nước nhà đến chỗ “ngóc đầu không nổi”. Tranh luận là một việc tốt. Tôi chỉ hy vọng rằng, khi tham gia vào mỗi cuộc tranh luận, người ta phải có trách nhiệm với lời nói của mình.
Trong quan sát của cá nhân tôi, hầu hết người Việt có điều kiện mua tranh thời mỹ thuật Đông Dương đều là những người buôn bán đồ cổ với một thị trường ngầm, tranh tối tranh sáng. Họ lọc lõi và nhiều mánh lới của người buôn bán, thay vì là các nhà sưu tập có danh vị và sự nghiệp rõ ràng. Theo ông, đây có phải là một điều “tế nhị” rất đáng lo ngại về những khu ổ mới của tranh giả Mỹ thuật Đông Dương trong tương lai không xa?
Nhìn một cách công bằng, thị trường tranh Việt hiện nay đang cần những đầu tư nhất định. Trong những giao dịch mang tính thương mại, lợi nhuận là điều trên hết. Giá trị kinh tế của tranh Mỹ thuật Đông Dương chưa quá đắt, hiện vẫn là một món hàng béo bở. Một số nhà chuyên môn quốc tế cũng đang lợi dụng chỗ đứng của họ để trục lợi. Chúng ta chưa có văn phòng tư vấn mỹ thuật, chưa có luật lệ rõ ràng để bảo vệ họa sĩ cũng như điều khoản trừng phạt người vi phạm bản quyền. Chính vì thế, chuyện thật - giả của tranh là một vấn nạn đối với thị trường tranh Việt.
Tôi nghĩ, thị trường đầu tư này sẽ cân bằng hơn, tránh bị tư nhân trục lợi quá đáng nếu ngân khố Nhà nước có tài khoản dành riêng để mua tranh về Bảo tàng Mỹ thuật quốc gia - địa chỉ xứng đáng để công chúng có thể thưởng thức một phần tinh hoa văn hóa Việt Nam.
Ông Ngô Kim-Khôi (ảnh bên) là một nhà nghiên cứu, một chuyên gia Hội họa Việt Nam thời kỳ Mỹ thuật Đông Dương. Ông từng cộng tác với Tòa Thị chính Paris (1998), Bảo tàng Cernuschi Paris (2012-2013), Viện Hàn lâm Hải ngoại Pháp (2015), các nhà đấu giá nổi tiếng tại Pháp như Aguttes, Art-Valorem... trong lĩnh vực nghiên cứu và viết về hội họa Việt Nam thời kỳ này. Định cư tại Pháp từ năm 1985, ông cũng lấn sân sang lĩnh vực tạo mẫu thời trang và từng làm việc cho các thương hiệu lớn như Hermès, Givenchy, Christian Dior, Scherrer, Balenciaga...