Truyện ngắn của Trần Hoằng Trì không lên gân sức, không lắm đùng đoàng trận mạc, nhưng được vẽ ra với chi tiết tinh tế, để đủ hiện lên một bức tranh khốc liệt, sinh động, đầy tính bi hùng của cuộc chiến đã tắt đi gần 40 năm qua.
Lời bình của Nhà văn NGUYỄN VĂN THỌ
Chuyến tàu xuyên Việt đi qua miền trung vào một hôm mưa lớn. Người đàn bà ngồi cạnh Khánh chừng hơn 50 tuổi, trang điểm khá kỹ, dáng như Việt kiều, nhưng cô vẫn giữ thứ tiếng Huế nghe không biết chán. Thứ tiếng Huế hiền, nhẹ, nhẫn nhịn, nói vừa đủ nghe, trách vừa đủ nhớ, khiến anh chợt nghĩ về một người.
Một người không rõ mặt, không rõ tên, chỉ nhớ giọng nói nửa như mơ hồ, nửa như day dứt. “Bao giờ anh về lại Thừa Lưu?”. Câu nói ấy, hẳn cũng chỉ tình cờ, như cô đã nói với bao người, nhưng biết đâu đấy - chỉ dành cho anh, mà biết đâu người nói cũng quên rồi, riêng với Khánh nó còn văng vẳng, như cơn gió thoảng mát lịm cả người.
“Cô tên là gì?” - anh hỏi người đồng hành, hơi bất lịch sự. Vị khách cũng dừng đọc sách: “Thưa anh, tôi tên Duyên”, rồi cô sửa cặp kính. Lâu lắm rồi Khánh mới từ ngoài bắc đi vào nam, qua miền trung, nơi đơn vị anh từng mấy năm chiến đấu. Cuộc chiến cuối cùng nơi đây, chiến dịch giải phóng Huế và Đà Nẵng, nhiều đồng đội anh ngã xuống mà một số hiện chưa tìm thấy hài cốt.
Anh đã trở lại Thừa Lưu, để tìm người con gái không rõ mặt ấy, nhưng cái thị tứ bị bom đạn san phẳng, như một trận cuồng phong cuốn mọi thứ ra biển khơi. Hay cô trở vào thành phố, thậm chí theo gia đình đi nước ngoài? Từ đó, anh chỉ còn nhớ về một giọng nói, nghe như thể lỡ lời.
“Tôi là người Huế, nhưng không phải dân Thừa Lưu”. Người bạn đường nghe anh hỏi chuyện và nói với anh bằng thứ tiếng Huế có pha âm sắc nước ngoài. Hơi trọ trẹ.
Cô đúng là Việt kiều mới về nước, đi du lịch đó đây. Ra Hà Nội, thăm Hồ Gươm, thăm chùa Một Cột, ra tận Bắc Ninh thăm chùa Dâu, ghé Vinh và Hà Tĩnh nữa. “Tôi thích viết văn, nhưng lại sống bằng nghề kỹ sư hóa chất” - Duyên nói với anh. “Anh là nhạc sĩ?”. Khánh cũng lắc đầu: “Tôi yêu âm nhạc, nhưng sống bằng nghề dạy học”.
Khánh giảng dạy về văn học dân gian ở Trường cao đẳng Sư phạm. Sau chiến tranh, anh có nhiều nguyện vọng và nhiều cơ hội, nhưng anh đã chọn công việc liên quan đến văn học dân gian. Nền văn học quan trọng của dân tộc, một nền văn học khuyết danh.
Chuyến tàu dừng đón khách ở ga Huế rồi tăng tốc hướng về đèo Hải Vân, nhưng trước khi qua đèo Hải Vân sẽ phải qua đèo Phước Tượng và cái thị tứ nhỏ dưới chân đèo.
“Anh từng ghé Huế bao giờ chưa? Lần về này tôi không ghé Huế, mà thăm một số nơi”. Khánh bùi ngùi: “Tôi chỉ hai lần đến nơi này, thăm một thị tứ nhỏ cách Huế chừng ba chục cây số”. Anh cười cười: “Đúng ra, một lần là để đánh sập chiếc cầu trong thời chiến và một lần để tìm gặp người con gái đã đi trên chiếc cầu”.
“Tôi là đàn bà con gái, không thích nghe chuyện bom đạn đâu. Nhưng thôi, anh cứ kể đi. Biết đâu, tôi lại viết được một tác phẩm văn chương”. Duyên lấy cuốn sổ chi chít chữ. Anh không ngờ mình lại kể câu chuyện riêng tư, câu chuyện chẳng có gì là chuyện, chỉ loay hoay quanh một giọng nói, vang lên trong đêm trăng mờ.
Tháng 3, chính xác như vậy, năm 1975. Chiến dịch giải phóng Huế và Đà Nẵng bắt đầu. Một trong những trận chiến đấu lớn nhất của chiến dịch, bởi khi đó chế độ cũ vẫn còn nguyên bộ sậu lãnh đạo, binh hùng tướng mạnh, với Huế, bao giờ họ cũng đề cao tinh thần tử thủ. Cùng lúc với chiến dịch giải phóng Tây Nguyên, đại quân các hướng cùng tấn công giải phóng thành phố Huế ở miền trung.
Mọi cặp mắt hướng về mảnh đất cố đô, với những đền đài thành quách, một vùng văn hóa quyến rũ. Các đơn vị nhắm về kỳ đài trước cửa Ngọ Môn, để treo lá cờ quân giải phóng lên cột cờ thiêng liêng mà nhiều năm trời khắc khoải chờ đợi.
Lúc đó, tiểu đội của Khánh lại chiến đấu tại một nơi heo hút, không ai biết đến tên.
Một địa danh chẳng có gì đặc biệt. Nhiệm vụ của nhóm bộ đội đặc công là đánh sập chiếc cầu Thừa Lưu trên quốc lộ, để cô lập Huế với Đà Nẵng. Chiếc cầu ngắn, chỉ mấy chục bước chân. Nhưng nó nối thông thành phố Huế với đèo Phước Tượng, đèo Hải Vân, với Đà Nẵng. “Sau một tiếng nổ long trời, cầu Thừa Lưu sẽ bị phá tan. Thành phố Huế, từ phút giây ấy, bị chia cắt, coi như đã thuộc về chúng tôi” - Khánh tự hào kể về chiến công của đơn vị.
“Chúng tôi được du kích địa phương đưa tập kết quanh chân cầu. Đó là một cây cầu nằm trong sự bảo vệ nghiêm ngặt của nhiều đơn vị quân đội cũ, ngay cạnh đó còn có một cái ga xe lửa, nơi thường đổ xuống vũ khí đạn dược cho miền trung. Tai mắt của địch dày đặc. Quân ta đã chuẩn bị cho một cuộc tấn công vào Thừa Lưu, ngay sau khi cầu bị đánh sập. Nhưng lúc này, chỉ có anh em đặc công chúng tôi cùng anh em du kích, giữa trùng điệp các đơn vị của đối phương, họ sẵn sàng nổ súng vào bất kỳ những gì khả nghi”.
Khánh kể nhanh, chẳng biết cô nhà văn nghiệp dư kịp ghi được gì hay không.
Người dẫn đường, làm hoa tiêu cho họ, không ai khác là một cô du kích địa phương đội chiếc nón trắng, nhưng khuôn mặt khéo léo che bằng chiếc khăn tay nên không rõ mặt.
Sau khi tập kết gần ngôi nhà thờ cổ của hoàng tộc đặt ở gần ga xe lửa, một điểm trú quân uy nghi với ngôi nhà rường phủ bóng, cùng những sắc phong và khói hương nghi ngút, tiểu đội của Khánh chờ đợi giờ xuất kích. Lần đầu tiên họ được giao liên cho ăn món bánh canh cá lóc nấu kiểu Huế nhưng không cho ớt.
Cô du kích nói với họ rằng đây là nhà thờ họ hàng của cô, cũng là họ hàng nhà vua. Khi phong trào Cần Vương chống Pháp nổ ra, những người chủ chiến đã rời thành phố Huế để về vùng núi heo hút dưới chân đèo Phước Tượng ẩn cư, tránh sự truy bức của thực dân Pháp. Họ đã sống ở đây hàng trăm năm rồi. Cuộc chiến đấu kể từ ngày đó, đến giờ chưa kết thúc. Khánh nói với cô gái: “Đất nước sắp thống nhất. Bà con tập kết của cô sắp trở về rồi”. Thật bất ngờ, cô quay lại nhìn Khánh, đôi mắt đen biếc: “Thế bao giờ anh về lại Thừa Lưu?”.
Đêm yên tĩnh. Tiếng súng khắp nơi không dứt. Thị tứ lúc này vẫn yên tĩnh khác thường. Người ta vẫn biết điều gì đó sắp xảy đến, nhưng không ai rõ sẽ là điều gì đây.
Người dân vẫn thường buôn bán qua lại chơi trên cầu ngắm trăng. Cái thị tứ nhỏ, xa thành phố, khung cảnh buồn buồn. Sắp đến giờ vào trận, trên cầu vẫn còn một tốp thanh niên đứng chơi. Đặc công không thể khai hỏa. Ngày hòa bình sắp tới rồi, mọi người đều phải được hưởng ngày vui. Người giao liên quyết định đi lên cầu. Một quyết định mạo hiểm, nằm ngoài dự kiến.
Từ xa, Khánh thấy cô giao liên trẻ cầm chiếc nón, nói với những người địa phương điều gì đó. Họ trò chuyện một lúc, như không gì xảy ra. Rồi cùng nhau đi khỏi cầu. Thay vì hướng thành phố, họ đã phải quay về phía đèo Hải Vân, tránh ánh mắt theo dõi của lính gác.
Giây phút cuối cùng của chiếc cầu. Cầu Thừa Lưu nổ bung lên không trung bởi khối thuốc nổ khổng lồ. Thậm chí chiếc tháp canh bên cầu cũng vỡ vụn trong chớp mắt. Cùng lúc các mũi tấn công của quân ta khai hỏa, bầu trời dưới chân đèo Phước Tượng sáng rực trong ánh lửa đạn.
Người thầy dạy ca dao tục ngữ kể lại: “Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, tiểu đội đặc công chúng tôi rút khỏi khu vực cầu, nhường trận địa cho các đơn vị khác”. Anh không kể rằng anh đã cố nhìn xem người con gái đội nón trong đêm ở đâu. Khói lửa mù mịt che khuất tất cả. Lòng anh nhói đau như trúng một miểng đạn vô hình mà tai văng vẳng giọng nói như một lời ca.
Người khách đồng hành ghi chép xong. Cô vào mạng internet và tìm thấy số liệu rằng Huế bị cô lập, nên khi giải phóng, khoảng 58.000 binh lính sĩ quan chế độ cũ đã bị bắt hay ra trình diện, và khoảng gần 2.000 xe tăng thiết giáp và xe vận tải.
Tàu chạy chậm lại trong đêm. Qua ga Thừa Lưu phải không? Chiếc cầu đâu rồi nhỉ?
Ga xép nhỏ bé hầu như chỉ dùng dừng chân để tránh các chuyến tàu. Ánh đèn người gác ghi xa xa, như ánh lửa. “Anh biết không” - người khách đồng hành nói - “Huế là nơi mưa nhiều nhất Việt Nam và Thừa Lưu chính là nơi mưa nhiều nhất Huế”.
Thế đấy, anh chưa biết đến những cơn mưa đã trút quanh năm xuống cái cầu nhỏ bé ngoài kia, như thời gian vẫn thử thách sự trường tồn của cây cầu trong thời bình. Cây cầu được xây dựng lại sau chiến tranh. Nó được sơn trắng, có ghi lý trình. Như mọi cây cầu, không khác gì cả.
Trong cơn mưa tàu tăng tốc, trong ánh trăng bàng bạc, anh kịp nhận ra những khu rừng quanh chiếc cầu giờ phủ kín cây tràm. Khánh chìm trong giấc ngủ thảnh thơi. Sự yên bình đã cho anh cảm giác ấm cúng, dễ chịu. Những chiếc xe vẫn chạy qua chiếc cầu nhỏ không dứt, như thời gian không dừng lại.
Dăm chục lò nấu dầu tràm bao quanh chiếc cầu. Dầu tràm xua mệt mỏi và cái lạnh da diết nơi chân đèo. Lạ thật, chẳng biết người ta chọn nơi này nấu dầu bởi vì sao? Tàu dừng ga, hẳn Duyên sẽ xuống mua mấy lọ dầu làm quà cho người bên xứ lạnh.
Duyên cúi xuống lượm cây bút chì. Câu chuyện của người đi tàu khiến cô không khỏi xúc động. Cô nghĩ về những ngôi nhà rường cổ của quê hương. Cô không biết liệu tiếng Huế pha với tiếng ngoại quốc của mình có gợi lên ở Khánh điều gì không. Khuôn mặt khắc khổ của người giáo viên thích sưu tầm ca dao tục ngữ giờ đây thanh thản lạ thường.
Duyên lục túi, lấy chiếc khăn mùi xoa lau vội giọt nước mắt trên khuôn mặt đã in những dấu chân chim khi con tàu bắt đầu leo lên đèo Phước Tượng. Cô gập cuốn sổ nhỏ nhưng vẫn cầm chặt nó trên bàn tay với cây bút chì bạc màu.
Thị tứ nhỏ sau lưng Duyên, những ngôi nhà lợp ngói cũ kỹ chìm trong giấc ngủ. Màu xanh tươi non kéo dài từ đèo xuống thị tứ rồi tràn ra tới biển như dòng thác. Cơn mưa bất tận, nhưng nó không thể làm phai mờ mùi dầu tràm tỏa thơm ngát quanh một chiếc cầu.
7-2013