Đảng lãnh đạo và phát triển văn hóa trong thời kỳ đổi mới

1. Ngay sau khi thành lập (1930) và bắt đầu lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định văn hóa là một mặt trận quan trọng “là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động” (Đề cương về văn hóa Việt Nam - 1943). Suốt 90 năm qua, tư tưởng chiến lược ấy đã được quán triệt sâu sắc và thực hiện có hiệu quả. Trong quá trình đó, cùng với sự biến đổi, phát triển của thực tiễn và của tư duy, các quan điểm, đường lối về văn hóa của Đảng được bổ sung, phát triển và hoàn thiện, có thể chia thành hai mốc lớn: trước đổi mới và từ đổi mới (1986) đến nay. Nhìn tổng quát, từ đổi mới đến nay, các quan điểm đó, so với giai đoạn trước, có những điều chỉnh lớn, bổ sung quan trọng và thật sự có bước phát triển về chất.

Về phạm vi và nội hàm của văn hóa, trước đổi mới, Đảng thường nhấn mạnh hai lĩnh vực: văn học, nghệ thuật và đời sống văn hóa cụ thể. Phần lớn các văn kiện thường quan tâm đến hai lĩnh vực đó. Do sự phát triển của thực tiễn xây dựng văn hóa và sự tổng kết về mặt lý luận thực tiễn đó, từ đổi mới, Đảng cho rằng, cách hiểu trên chưa thật toàn diện, từ đó xác định phạm vi và nội hàm của văn hóa theo nghĩa rộng và bao quát hơn nhiều. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (tháng 7-1998) “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, lần đầu tiên, văn hóa được hiểu bao gồm tám lĩnh vực rộng lớn, không chỉ là văn học, nghệ thuật, mà cả xây dựng môi trường văn hóa, xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống, phát  triển giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ, hệ thống thông tin đại chúng, bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa và văn hóa các dân tộc thiểu số, chính sách văn hóa đối với tôn giáo, mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa, hoàn thiện thể chế văn hóa... Việc xác định rõ  hơn, toàn diện và bao quát hơn về văn hóa là cơ sở khoa học để Đảng khẳng định mạnh mẽ một quan điểm: các nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp, kỷ cương... biến thành sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững như Nghị quyết 33-NQ/TW (ngày 9-6-2014) khẳng định.

Nhận thức mới về nội hàm, phạm vi, các lĩnh vực của văn hóa là một bước phát triển mới, rất quan trọng của Đảng từ đổi mới đến nay. Từ nhận thức mới đó, sự lãnh đạo văn hóa của Đảng có sự thay đổi lớn, đòi hỏi trình độ bao quát vừa rộng vừa sâu hơn, năng lực tốt hơn trong việc phát huy sức mạnh tổng hợp của các lĩnh vực, loại hình văn hóa và sự tác động của nó đối với các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.

Về vị trí, vai trò của văn hóa. Xuất phát từ yêu cầu của cuộc vận động cách mạng, đấu tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc từ năm 1930 đến 1975, Đảng kiên trì khẳng định, văn hóa, văn học, nghệ thuật là vũ khí đấu tranh cách mạng có sứ mệnh tham gia trực tiếp cuộc chiến đấu, góp phần - theo ưu thế riêng của mình - vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc. Nguyên tắc, quan điểm đó tiếp tục được khẳng định trong thời kỳ đổi mới. Đồng thời, để phù hợp hơn với vai trò rộng lớn, bao quát của văn hóa, Đảng đã mở rộng cách nhìn, xác định vai trò trước hết trở nên không thể thiếu được của văn hóa trong toàn bộ cuộc sống của con người, là vì “Văn hóa là nhu cầu thiết yếu... thể hiện trình độ phát triển chung của một đất nước, một thời đại, là lĩnh vực sản xuất tinh thần tạo ra những giá trị văn hóa... làm giàu đẹp thêm cuộc sống con người” (Nghị quyết số 05-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa VI, tháng 11-1987). Luận điểm này đã vượt qua cách hiểu văn hóa gắn với yêu cầu cụ thể của một giai đoạn lịch sử cụ thể, mà đặt văn hóa trong toàn bộ tiến trình lịch sử của đời sống xã hội và con người, vì thế luận điểm này trở thành một thành tựu lý luận mới, rất quan trọng, mở ra những cách nhìn sâu hơn, toàn diện hơn, khoa học hơn về vị trí, vai trò của văn hóa trong mọi mặt đời sống.

Từ cách tiếp cận mới nêu trên, từ đổi mới, Đảng đã tiến thêm một bước rất cơ bản trong tư duy về văn hóa, đó là sự khẳng định “văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển bền vững của đất nước” (trước đó, văn kiện chỉ khẳng định “sự phát triển kinh tế - xã hội).  Đây là luận điểm mới và khái quát nhất về vị trí, vai trò của văn hóa. Văn hóa được nhìn nhận ở chiều sâu nhất của nó, ở những giá trị do nó tạo nên, từ đó trở thành nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực thúc đẩy sự phát triển. 

Về tính chất cơ bản của nền văn hóa Việt Nam: “Tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Đây cũng là một thành tựu mới về lý luận của Đảng về văn hóa trong thời kỳ đổi mới. Từ tổng kết thực tiễn xây dựng văn hóa, trải qua một quá trình tìm tòi không đơn giản, khắc phục sự vận dụng ít nhiều máy móc và sự giáo điều, Đảng mới đi tới được luận điểm có tính chất bao quát nêu trên cho toàn bộ quá trình lãnh đạo xây dựng và phát triển văn hóa.

Sau đổi mới 5 năm, tức năm 1991, trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, Đảng khẳng định quan điểm  có sự đổi mới cơ bản và sâu sắc. Tất cả các cụm từ “nội dung xã hội chủ nghĩa”, “văn hóa xã hội chủ nghĩa”, “hình thức dân tộc”, “tính chất dân tộc” trong các văn kiện trước đây đã được chỉnh sửa thay thế bằng luận điểm mới, nền văn hóa mà chúng ta đang xây dựng là “nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Bảy năm sau, trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa VIII), năm 1998, luận điểm nêu trên được làm rõ nội hàm của nó. Trước hết, nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một trong sáu đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Có nghĩa là, sẽ không có chủ nghĩa xã hội hoàn chỉnh nếu không xây dựng được trong đó một nền văn hóa như thế. Và, “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” hoàn toàn không phải là hai tính chất, hai yêu cầu tách rời nhau hay đứng cạnh nhau, mà xuyên thấm vào nhau để tạo nên phẩm chất chung của nền văn hóa đó.

Về phẩm chất “tiên tiến”, đó là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên.

Phẩm chất “bản sắc dân tộc” là sự bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Những giá trị bền vững đó đã được hình thành, phát triển và định hình, trở thành cốt cách của dân tộc Việt Nam, đồng thời, nó là một hệ thống mở, không phải là một thực thể nhất thành bất biến, mà có sự bồi đắp trong lịch sử, trong thế động và trong sự tự biến đổi, có khả năng tự làm giàu bản sắc dân tộc. Có nghĩa là bảo vệ bản sắc dân tộc phải gắn với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái tiên tiến của văn hóa thế giới, giữ gìn phải đi liền với nhiệm vụ chống những gì đã lỗi thời, lạc hậu để gắn với phát huy và phát triển.

Riêng đối với văn học, nghệ thuật, Đảng ta nhấn mạnh, thứ nhất, đó là lĩnh vực đặc biệt tinh tế của văn hóa, vai trò của nó được khẳng định mạnh mẽ và sâu sắc hơn “là một trong những động lực to lớn trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam”. Thứ hai, tiếp tục nhấn mạnh phẩm chất nhân văn, dân chủ của nền văn học, nghệ thuật đương đại, đồng thời, không chỉ yêu cầu “định hướng” (như trước đây), mà còn đòi hỏi phải có khả năng “đáp ứng” nhu cầu văn hóa - tinh thần ngày càng cao của nhân dân. Thứ ba, tiếp tục khẳng định “tài năng văn học, nghệ thuật là vốn quý của dân tộc’’ và nhấn mạnh  hơn thái độ cần thiết của sự lãnh đạo “tôn trọng, bảo đảm quyền tự do sáng tạo, tạo điều kiện thuận lợi phát huy tính độc lập, khơi dậy mọi nguồn lực sáng tạo của văn nghệ sĩ” vừa khẳng định truyền thống là “người chiến sĩ”, đồng thời yêu cầu “nêu cao trách nhiệm công dân” của đội ngũ sáng tạo văn học, nghệ thuật.

Những nội dung mới trong quan điểm nêu trên về văn hóa, văn học, nghệ thuật của Đảng từ đổi mới đến nay có tác dụng chỉ đạo toàn bộ quá trình lãnh đạo xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam 35 năm qua, hình thành và xác định những chủ trương lớn trong lĩnh vực đặc biệt quan trọng này.

2. So với trước năm 1986, nhìn tổng thể, diện mạo của văn hóa Việt Nam đã có những thay đổi rõ rệt và chịu sự vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Không thể dùng biện pháp hành chính hay quản lý thô thiển để ngăn cản sự phát triển đa dạng đó của văn hóa khi thấy xuất hiện những khuynh hướng mới lạ, khác biệt trước đây chưa có trong đời sống văn hóa.  Đảng nhìn nhận đó là dấu hiệu của sự phát triển hợp quy luật trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế. Song, trước đặc điểm đó, lãnh đạo văn hóa phải có mục tiêu chính. Gần đây, Đảng đã đi tới chủ trương, vừa tôn trọng sự phát triển đa dạng của văn hóa, vừa chú trọng tạo điều kiện cho sự phát triển mạnh của dòng mạch chính của văn hóa, văn học, nghệ thuật. Dòng mạch chính đó là chủ nghĩa yêu nước và nhân văn, gắn bó với dân tộc, nỗ lực phản ánh chân thật cuộc đấu tranh cách mạng và lao động sáng tạo của nhân dân... thể hiện qua những đề tài lịch sử, chiến tranh cách mạng và những vấn đề thời sự của đất nước (Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị khoá X, tháng 6-2008). Đây là một chủ trương đúng, trúng, vừa phù hợp với nhu cầu phát triển văn hóa, vừa đáp ứng được yêu cầu lãnh đạo và định hướng cho sự phát triển đó…

Tuy nhiên, đang xuất hiện không ít vấn đề trong quá trình xử lý mối quan hệ giữa văn hóa với nhiệm vụ xây dựng con người. Bắt đầu có dấu hiệu lẩn tránh hay phủ nhận vai trò của văn hóa, coi văn hóa thời hiện đại xa lạ với nhiệm vụ đó, mà chỉ còn là sự giải trí, sự giải tỏa cái tôi cá nhân, chạy trốn vào chủ nghĩa hình thức để quay lưng lại với những vấn đề gắn với cuộc sống đương đại. Thậm chí, đã có không ít sản phẩm gọi là “văn hóa”, nhưng lại cổ vũ cho lối sống thấp hèn, nhục dục, phi đạo đức, sa đọa, trái với truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Lý tưởng sống và thị hiếu thẩm mỹ thấp kém của một bộ phận công chúng, trong đó đặc biệt là công chúng có tiền và một bộ phận thanh niên, đã chi phối tư duy, dự định và kết quả sáng tạo của một số văn nghệ sĩ, từ đó, tạo ra những sản phẩm rẻ tiền, tầm thường, nhưng lại có thị trường tiêu thụ và tiếp nhận. Loại sản phẩm này có tác hại thật sự đối với con người, làm méo mó, thậm chí phá hoại, làm hư hỏng, biến dạng nhân cách con người. Kịp thời nhận rõ sự biến động trong quan niệm có phần lệch lạc về chức năng của văn hóa, trong Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành T.Ư khóa XI (tháng 6-2014), sợi chỉ đỏ xuyên suốt là sự nhấn mạnh mối quan hệ không thể tách rời giữa “xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam”.

Lãnh đạo xây dựng và phát triển đội ngũ hoạt động và sáng tạo văn hóa, văn học, nghệ thuật được Đảng khẳng định là một trong những trách nhiệm nặng nề và nhiệm vụ lớn của Đảng và Nhà nước. Đó là nhân tố quyết định đối với sự nghiệp văn hóa. Trong 30 năm tham gia trực tiếp vào sự nghiệp cách mạng, giải phóng, bảo vệ và thống nhất Tổ quốc, trong đời sống văn hóa Việt Nam, đã hình thành một danh hiệu cao quý và độc đáo của những người hoạt động, sáng tạo văn hóa Việt Nam, đó là “nghệ sĩ - chiến sĩ”, “chiến sĩ - nghệ sĩ”. Danh hiệu đó thể hiện sự gắn bó sâu sắc giữa nghệ sĩ và cách mạng, giữa nghệ sĩ và lý tưởng của Đảng. Từ đổi mới đến nay, do tác động đa chiều, hết sức phức tạp của đời sống đối với văn nghệ sĩ nên trong đội ngũ này đang có những biến đổi, biến động, không còn ở trạng thái ổn định như trước. Song, nhìn tổng quát, Đảng vẫn khẳng định rằng, đội ngũ văn nghệ sĩ là lực lượng tin cậy, trung thành, có nhiều đóng góp cho sự nghiệp chung, có tình yêu sâu sắc với dân tộc, đất nước và nhân dân, tâm huyết với nghề nghiệp, đã trực tiếp sáng tạo được nhiều tác phẩm, công trình có giá trị tư tưởng và nghệ thuật, có tác dụng tích cực trong sự nghiệp đổi mới. 

Đảng đặc biệt quan tâm đến việc phân tích những đặc điểm mới, vấn đề mới đang đặt ra trong đội ngũ văn hóa để từ đó xác định những công việc phải làm nhằm thực hiện được mục tiêu tiếp tục phát triển đội ngũ đó trong thời kỳ mới. Nổi bật là những vấn đề sau cần hết sức quan tâm: chăm lo cho sự hình thành và phát triển nhân tài trong các lĩnh vực văn hóa; sự xuất hiện thế hệ trẻ với nhiều đặc trưng rất mới, nhiều biểu hiện khác xa với các thế hệ trước; sự tác động mạnh, nhiều chiều, phức tạp của các khuynh hướng tư tưởng, văn hóa quốc tế đối với đội ngũ văn hóa Việt Nam, nhu cầu tự do tư tưởng, tự do sáng tạo, tìm tòi, thể nghiệm ngày càng trở nên mạnh mẽ, sự tăng cường và đổi mới công tác đào tạo đội ngũ trước yêu cầu mới.

Thể chế hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về văn hóa thành pháp luật, chính sách của Nhà nước là một phương thức quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với văn hóa. Có thể nói, từ đổi mới đến nay rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật mới về văn hóa được xây dựng và triển khai thực thi trong cuộc sống. Trước năm 1986, có rất ít luật về văn hóa, mà phần lớn là các thông tư, chỉ thị, hướng dẫn. 35 năm qua, một loạt luật liên quan trực tiếp đến các lĩnh vực văn hóa được xây dựng. Đồng thời, các chính sách cụ thể về văn hóa cũng được chú trọng xây dựng và thực hiện. Quan điểm của Đảng đối với các hội văn học, nghệ thuật ở trung ương và ở các tỉnh, thành phố thể hiện rõ sự tôn trọng và đánh giá cao các tổ chức trên đối với sự nghiệp chung. Đảng xác định các hội văn học, nghệ thuật là tổ chức chính trị - xã hội, nghề nghiệp của những người hoạt động và sáng tạo văn học, nghệ thuật tự nguyện đứng trong tổ chức để cống hiến, phục vụ sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân. 

Tuy vậy, hiện nay, Đảng và Nhà nước phải khẩn trương giải quyết một vấn đề lớn đang đặt ra, đó là nhiều quan điểm của Đảng đã được công bố, song sự thể chế hóa thành chính sách, chế độ, pháp luật của Nhà nước còn chậm, lạc hậu, đôi khi còn vênh nhau, thậm chí có nội dung chỉ đạo chưa được thể chế hóa nên hiệu lực, hiệu quả của sự lãnh đạo bị hạn chế. Giải quyết tốt vấn đề này là một yêu cầu cấp bách và cơ bản để tạo nên sự đồng bộ và thống nhất giữa sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực văn hóa.

GS, TS ĐINH XUÂN DŨNG