"Năm tháng sẽ trôi qua nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang sử chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc". Về thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch quyết chiến chiến lược mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, Ðảng ta cũng đã đánh giá: "Là bước phát triển ở giai đoạn chín muồi trong toàn bộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, là kết quả hợp thành của tất cả những lực lượng, những yếu tố làm nên sức mạnh tất thắng của nhân dân ta trong cuộc chiến tranh yêu nước vĩ đại, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 đã diễn ra với tốc độ "Một ngày bằng 20 năm". Chỉ trong 55 ngày đêm, với sức mạnh áp đảo cả về quân sự và chính trị, quân và dân ta đã giành toàn thắng bằng ba trận đánh then chốt đập tan hoàn toàn bộ máy quân sự khổng lồ và hiện đại của chính quyền tay sai được xếp vào loại mạnh nhất ở Ðông-Nam châu Á.
Trận then chốt thứ nhất - Chiến dịch Tây Nguyên, mở đầu bằng trận bấm huyệt ở Buôn Ma Thuột, tiêu diệt một tập đoàn phòng ngự quan trọng của địch, là khởi điểm dẫn đến sự tan rã và sụp đổ về chiến lược của ngụy quân, ngụy quyền, mở ra thời cơ tổng tiến công chiến lược. Trận then chốt thứ hai - chiến dịch Huế - Ðà Nẵng, được tổ chức chuẩn bị trong quá trình phát triển của cuộc Tổng tiến công chiến lược, chiến dịch đã tiêu diệt quân đoàn 1 ngụy, quét sạch địch ở ven biển miền trung. Thắng lợi của chiến dịch này đã cùng với chiến dịch Tây Nguyên làm thay đổi hẳn so sánh lực lượng về mặt chiến lược, trực tiếp đánh bại âm mưu co cụm chiến lược của địch, tích cực góp phần tạo điều kiện cả về thế trận, lực lượng và thời cơ cho đòn then chốt quyết định thứ ba - chiến dịch quyết chiến chiến lược: Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, là cuộc hội quân lớn nhất và diễn biến trận đánh hết sức nhanh chóng: Chiến dịch Ðiện Biên Phủ tập trung hầu hết các đại đoàn ở chiến trường miền bắc (bốn đại đoàn: 308, 312, 316 và 304 thiếu), chiến dịch đã diễn ra trong 55 ngày đêm (17 giờ ngày 13-3 đến 17 giờ 30 phút ngày 7-5-1954) đúng bằng với 55 ngày đêm của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 (kể từ khi nổ súng tiến công Buôn Ma Thuột, ngày 10-3-1975) đến khi giải phóng hoàn toàn miền nam Việt Nam (1-5-1975), nhưng chỉ trong phạm vi trên ba ngày (17 giờ ngày 26-4 đến 11 giờ 30 phút ngày 30-4) với sức mạnh của năm quân đoàn chủ lực tinh nhuệ làm nòng cốt, chiến dịch mang tên Bác Hồ giải phóng Sài Gòn, giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất Tổ quốc đã làm nức lòng nhân dân cả nước, làm cả hành tinh chấn động.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta mà đỉnh cao là Ðại thắng mùa Xuân năm 1975 với trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, Chiến dịch Hồ Chí Minh, đã đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc ta, kết thúc vẻ vang quá trình 30 năm chiến tranh Cách mạng giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo đúng đắn, tài tình của Ðảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo. Với thắng lợi này, lần đầu tiên sau 117 năm, trên đất nước ta không còn bóng một tên xâm lược. Nâng lên tầm cao truyền thống yêu nước, bất khuất, kiên cường, ý thức tự lập, tự cường, tự hào dân tộc, thể hiện trí thông minh, sự sáng tạo của nhân dân ta. Ðưa dân tộc ta bước vào một kỷ nguyên mới, thời đại mới đầy hứa hẹn, kỷ nguyên và thời đại độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên toàn bộ Tổ quốc Việt Nam thân yêu từ mũi Cà Mau đến địa đầu Móng Cái.
Thắng lợi của sự kiện lịch sử trọng đại của đất nước, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà chiến dịch quyết chiến chiến lược mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh là đỉnh cao, trước hết là thắng lợi của đường lối Chính trị, đường lối quân sự và đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đúng đắn và sáng tạo của Ðảng ta; là thắng lợi của tinh thần chiến đấu anh dũng phi thường, chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ Việt Nam được phát triển đến đỉnh cao của toàn Ðảng, toàn dân và các lực lượng vũ trang nhân dân ta trong cả nước; là thắng lợi của chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền bắc đã phát huy cao độ tính hơn hẳn của nó trong chiến tranh giải phóng; là thắng lợi của tình đoàn kết chiến đấu keo sơn, phối hợp chặt chẽ của nhân dân và quân đội hai nước Lào, Cam-pu-chia, sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ quý báu của các nước xã hội chủ nghĩa, của nhân dân yêu chuộng hòa bình và công lý trên toàn thế giới. Ðó còn là thắng lợi và thành công tiêu biểu, phát triển đến đỉnh cao của nền khoa học và nghệ thuật quân sự Việt Nam trong trận quyết chiến chiến lược lịch sử - Chiến dịch Hồ Chí Minh, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận quân sự của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Chiến dịch Hồ Chí Minh là đỉnh cao của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975. Ðây là chiến dịch tiến công lớn chưa từng có trên chiến trường nước ta, vượt hẳn tất cả các chiến dịch lớn trước đó cả về quy mô lực lượng, cường độ và nhịp độ tiến công, nội dung tác chiến hiệp đồng quân binh chủng và mức độ hoàn thành triệt để nhiệm vụ chiến lược cũng như mục đích chính trị của chiến tranh cách mạng Việt Nam.
Trong một thời gian rất ngắn ta đã tập trung vào chiến dịch một lực lượng quân sự lớn chưa từng có trong điều kiện chiến trường nước ta, hình thành ưu thế áp đảo, tiêu diệt và làm tan rã nhanh chóng tập đoàn phòng ngự lớn có chuẩn bị trước của địch tại trung tâm đầu não của chúng. Ta đã sử dụng năm quân đoàn chủ lực tinh nhuệ, chưa kể các lực lượng dự bị chiến lược và lực lượng tại chỗ của Nam Bộ; cùng với hàng chục sư đoàn, lữ đoàn, trung đoàn binh chủng, quân chủng với nhiều vũ khí, phương tiện kỹ thuật hiện đại với khoảng 60 nghìn tấn vật chất kỹ thuật - hậu cần. Quy mô sử dụng lực lượng trong Chiến dịch Hồ Chí Minh không những lớn hơn hẳn các chiến dịch Tây Nguyên, Huế - Ðà Nẵng trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, mà còn lớn nhất trong lịch sử chiến tranh cách mạng của ta. Ðây không chỉ là khoa học về tổ chức mà còn là bước phát triển cao về nghệ thuật tạo ưu thế tuyệt đối hơn địch trên không gian và thời gian quyết định.
Không chỉ tập trung lực lượng lớn, tạo ưu thế tuyệt đối so với địch là yếu tố cơ bản đầu tiên quyết định thắng lợi của chiến dịch, mà còn trong thời gian rất ngắn, ta đã hình thành được thế trận bao vây lớn, chia cắt hiểm, hãm cả tập đoàn phòng ngự của địch vào tình thế bị bao vây chặt trên tất cả các hướng: đông, bắc, tây bắc, tây nam, nam; với thế trận tiến công áp đảo này, ta đã tạo được một trong những điều kiện cơ bản để thắng nhanh, đẩy địch tan vỡ rất nhanh. Ðây là một thế trận rất hiểm dựa trên cơ sở lực lượng rất mạnh của toàn chiến dịch, với cả lực lượng quân sự và chính trị, lực lượng chủ lực và lực lượng địa phương, trong đó nổi lên là vai trò nòng cốt quyết định đi trước một bước của các binh đoàn cơ động chiến lược. Ðó là thế trận tiến công của chiến tranh nhân dân Việt Nam phát triển lên đỉnh cao.
Trong một thời gian rất ngắn, ta đã kết hợp chặt chẽ việc tập trung lực lượng ưu thế tiêu diệt các sư đoàn chủ lực của địch, cơ động ở tuyến phòng thủ vòng ngoài và thọc sâu bằng binh đoàn đột kích lớn cơ giới hóa và trung tâm thành phố đánh chiếm ngay năm mục tiêu quan trọng then chốt nhất đã được lựa chọn: Bộ Tổng tham mưu ngụy, dinh Ðộc Lập, Biệt khu Thủ đô, Tổng nha cảnh sát, sân bay Tân Sơn Nhất. Ðây là sự sáng tạo trong vận dụng cách đánh chiến dịch của ta, khác hoàn toàn với mọi cách đánh chiến dịch tiến công trước đó. Ta đã kết hợp ngoài đánh vào, trong đánh ra, kết hợp quả đấm mạnh của các binh đoàn chủ lực với đánh nhỏ nhưng hiểm của các lực lượng địa phương, làm cho địch bị phân tán, chia cắt, tổ chức phòng ngự của chúng mất hiệu lực và nhanh chóng tan vỡ. Với cách đánh này chẳng những để dứt điểm nhanh gọn và chắc thắng trong điều kiện hai bên đều có binh lực, hỏa lực mạnh, mà thành phố ít bị tàn phá nhất, đồng bào ít bị thiệt hại nhất về tính mạng, tài sản và cuộc sống thành phố mau trở lại bình thường.
Chiến dịch đã thực hiện hiệp đồng chặt chẽ giữa nhiều lực lượng, cả binh chủng và quân chủng hiện đại trên địa bàn rộng lớn. Ðây là sự phối hợp ăn ý giữa các binh đoàn chủ lực với lực lượng địa phương, giữa bốn hướng tiến công, giữa các binh chủng của một tập đoàn chiến lược binh chủng hợp thành. Ðó là sự hiệp đồng giữa đánh địch trên tuyến phòng thủ từ xa và đột phá tuyến phòng ngự cơ bản ở ven đô của địch với đánh địch bằng binh đoàn thọc sâu vào trung tâm thành phố; giữa cắt đường bộ với ngăn đường sông, khống chế đường không; giữa tiêu diệt, đánh tan bộ binh thiết giáp với chế áp trận địa pháo binh và bắn phá, ném bom làm tê liệt sân bay địch. Thực hiện được sự hiệp đồng tác chiến như vậy là một bước tiến mới về nghệ thuật chiến dịch của ta trong chiến tranh cách mạng.
Với chiến dịch tiến công quyết chiến chiến lược cuối cùng, ta đã kết hợp trên quy mô lớn ba mũi giáp công, tiến công rất mạnh về quân sự với nổi dậy của quần chúng, lấy tiến công quân sự làm chính, đòn tiêu diệt lớn của khối chủ lực giữ vai trò quyết định, đồng thời phát huy sức mạnh tổng hợp lớn nhất cả quân sự và chính trị, tiến công và nổi dậy để giành toàn thắng trong thời gian ngắn nhất. Ðây là sự kết hợp đã đạt đến trình độ nghệ thuật phát triển cao trong chiến tranh giải phóng, cả quy luật chiến tranh và quy luật khởi nghĩa đều phát huy tác dụng và luôn tác động lẫn nhau, trong đó quy luật chiến tranh ngày càng giữ địa vị chi phối và quyết định.
Chiến dịch giải phóng Sài Gòn, trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã được Bộ Chính trị Ban Chấp hành T.Ư Ðảng Cộng sản Việt Nam quyết định vào ngày 14-4-1975 lấy tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh. Ðó chính là vì đại thắng lợi của dân tộc, một chiến công vĩ đại dâng lên Bác Hồ, đồng thời là một chiến công hiển hách dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, ngọn cờ đã đưa nhân dân ta đến những chiến công kỳ diệu trong kháng chiến cứu nước và những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Ðại tá, PGS, TS DƯƠNG ÐÌNH QUẢNG
(Học viện Quốc phòng)