Bảo vệ và phát triển bền vững rừng ven biển

NDO -

Theo số liệu theo dõi diễn biến tài nguyên rừng, tổng diện tích rừng và đất lâm nghiệp ven biển cả nước là hơn 709.000ha. Mặc dù diện tích rừng ven biển chỉ chiếm khoảng 3% tổng diện tích rừng quốc gia (rừng ngập mặn chiếm khoảng 1%); nhưng rừng ven biển đóng vai trò rất quan trọng trong việc duy trì cân bằng sinh thái, bảo tồn đa dạng sinh học, ngăn chặn sóng, gió, hạn chế xói lở bờ biển, bảo vệ đê biển và sinh kế của người dân…

Người dân chăm sóc cây trồng trên đất ngập mặn.
Người dân chăm sóc cây trồng trên đất ngập mặn.

Tại Hội thảo trực tuyến “Bảo vệ và phát triển bền vững rừng ven biển-giải pháp giảm phát thải và phát triển kinh tế” diễn ra mới đây, Tổng cục Lâm nghiệp (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho biết, thực hiện Quyết định số 120/QĐ-TTg ngày 22/1/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án bảo vệ và phát triển rừng ven biển ứng phó biến đổi khí hậu giai đoạn 2015-2020, cả nước đã thực hiện 140 dự án bảo vệ và phát triển rừng ven biển từ nhiều chương trình, nguồn vốn khác nhau. Thông qua đó, đã bảo vệ được gần 300.000ha rừng ven biển, phát triển rừng với tổng diện tích trồng 22.390ha và trồng mới 4 triệu cây phân tán các loại.

Ngoài trồng rừng, các địa phương đã thực hiện nhiều hạng mục công trình bảo vệ bờ biển, hỗ trợ bảo vệ, phát triển rừng như: tu bổ đê, kè, xây dựng tường mềm chắn sóng, giữ bùn để gây bồi, tạo bãi trồng rừng và các công trình lâm sinh khác như trạm, chốt, tháp canh bảo vệ rừng, đường ranh cản lửa, đường tuần tra, bảo vệ rừng. Bên cạnh đó, các địa phương đã tập trung phát triển hiệu quả sản xuất nông lâm kết hợp và các mô hình sinh kế ở vùng ven biển.

Một số dự án ODA (như MFF, MAM, JICA2, ICMP/GIZ, FMCR, REDD+, CGF/UNDP, SP-RCC…) có hợp phần phát triển sinh kế liên quan đến rừng ven biển bước đầu thực hiện có hiệu quả ở các địa phương.

Đối với rừng ngập mặn, đã xuất hiện các mô hình phát triển sinh kế dựa trên các hình thức đồng quản lý rừng được thực hiện tại Đồng Rui (tỉnh Quảng Ninh); Xuân Thủy (tỉnh Nam Định); Âu Thọ B (tỉnh Sóc Trăng); Đất Mũi, Tam Giang (Cà Mau); các mô hình nông lâm ngư kết hợp như: nuôi ong, nuôi gà, vịt biển, tôm, cua, cá trong rừng ngập mặn do Dự án GCF thực hiện tại các tỉnh Nam Định, Thanh Hóa, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Cà Mau. Đặc biệt là mô hình nuôi tôm sinh thái trong rừng ngập mặn của dự án MAM tại tỉnh Cà Mau…

Đối với rừng trên vùng đất, cát ven biển đã xuất hiện một số hoạt động sinh kế có triển vọng như du lịch sinh thái, nuôi gia cầm, trồng cây dược liệu dưới tán rừng; trồng rừng gắn với trồng cây hoa màu và nuôi trồng thủy sản (tại tỉnh Quảng Bình); kết hợp du lịch sinh thái với bảo tồn, phát triển rừng dừa nước tại TP Hội An (Quảng Nam); trồng cây lâm nghiệp xen cây dược liệu và cây ăn quả (tại Đà Nẵng); giao khoán bảo vệ rừng gắn với phát triển chăn nuôi, cải tạo, nâng cao năng suất và chất lượng rừng trồng cây điều, mô hình làm dịch vụ du lịch (tại tỉnh Ninh Thuận)…

Bảo vệ và phát bền vững rừng ven biển -0
 Chăm sóc cây trồng trên đất ngập mặn tại vùng ven biển tỉnh Thừa Thiên Huế. (Ảnh: TTXVN)

Tại tỉnh Thừa Thiên Huế, theo Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm Lê Ngọc Tuấn, trong thời gian qua, tỉnh đã đẩy mạnh công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng ngập mặn ven biển nhằm ngăn chặn sự xâm nhập mặn của nước biển vào sâu trong nội địa, điều hòa khí hậu trong vùng, khôi phục hệ sinh thái vùng ven biển, qua đó, góp phần tăng nguồn thủy hải sản tự nhiên của địa phương và giúp cải thiện sinh kế của người dân trong vùng vốn có sinh kế dễ bị tổn thương do các điều kiện bất lợi của thiên nhiên.

Đến nay, toàn tỉnh đã trồng rừng ngập mặn với diện tích khoảng 141ha. Trong thời gian tới, mục tiêu của tỉnh là tiếp tục phát huy hơn nữa hiệu quả vai trò, chức năng của rừng ngập mặn ven biển, đầm phá trong việc phòng hộ, bảo vệ môi trường, giảm nhẹ thiên tai, ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu và nước biển dâng; giảm thiểu phát thải khí nhà kính; đồng thời tạo thêm công ăn việc làm, thu nhập cho người dân vùng ven biển, góp phần phát triển kinh tế-xã hội tại địa phương.

Công tác bảo vệ và phát triển rừng khu vực đồng bằng sông Cửu Long những năm qua đã đạt được nhiều kết quả, ứng phó hiệu quả với xâm nhập mặn và biến đổi khí hậu, góp phần bảo vệ sản xuất nông nghiệp và đời sống của nhân dân. Đồng bằng sông Cửu Long và các cụm đảo chung quanh là nơi sinh trưởng của 70% rừng ngập mặn và 90% diện tích thảm cỏ biển tại Việt Nam. Được bồi đắp bởi trầm tích và chất dinh dưỡng từ sông Cửu Long, khu vực này trở thành môi trường thuận lợi phát triển nguồn lợi thủy sản phong phú nhất tại Việt Nam. Tuy nhiên, khu vực sinh cảnh này đang đối mặt với các mối đe dọa ngày càng lớn.

Những tác động khác từ biến đổi khí hậu như hạn hán kéo dài và nhiệt độ trung bình môi trường tăng cao đang trở nên trầm trọng hơn do tình trạng mất dần các cánh rừng ngập mặn và cơ chế điều hòa vi khí hậu mà rừng ngập mặn đem lại, điều này đe dọa nghiêm trọng đến hoạt động nuôi tôm. Người nuôi tôm phải bơm và sử dụng nguồn nước ngầm để duy trì nhiệt độ nước biển cần thiết, dẫn đến hậu quả sụt lún đất và mất rừng ngập mặn nhanh hơn. Đây là những tồn tại cần sớm được khắc phục cả trước mắt và lâu dài thông qua việc triển khai các đề án hiệu quả trong bảo vệ và phát triển rừng ngập mặn ven biển ổn định, bền vững.

Trước những tác động ngày càng gia tăng của biến đổi khí hậu và nước biển dâng; phát huy những kết quả đạt được trong giai đoạn 2015-2020 và xác định mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ và phát triển rừng ven biển trong giai đoạn tới; trên cơ sở đề xuất của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, ngày 4/10/2021, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1662/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Bảo vệ và phát triển rừng vùng ven biển nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu và thúc đẩy tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, quản lý, bảo vệ và sử dụng hiệu quả diện tích rừng vùng ven biển hiện có, đặc biệt là đối với diện tích rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, rừng sản xuất là rừng tự nhiên vùng ven biển.

Theo mục tiêu Đề án, sẽ khôi phục và phát triển rừng, tập trung trồng rừng mới 20.000ha, gồm: rừng phòng hộ chắn sóng, lấn biển (rừng ngập mặn): 9.800ha; rừng phòng hộ chắn gió, chắn cát bay (trên lập địa đất, cát): 10.200ha. Trong đó, giai đoạn 2021-2025, trồng mới 11.000ha. Trồng bổ sung phục hồi rừng và làm giàu rừng 15.000ha, gồm: rừng phòng hộ chắn sóng, lấn biển (rừng ngập mặn): 6.800ha; rừng phòng hộ chắn gió, chắn cát (trên lập địa đất, cát): 8.200ha.

Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp Trần Quang Bảo cho biết, để triển khai tốt Đề án trong thời gian tới, ngành lâm nghiệp sẽ tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cộng đồng về giá trị của rừng ven biển. Cùng với đó, triển khai hài hòa lợi ích các bên; nâng cao chuỗi giá trị, chuỗi sinh kế để bảo đảm lợi ích của người dân và nhà nước. Ưu tiên nguồn lực để bảo vệ và phát triển rừng ven biển, có chính sách xã hội hóa để hỗ trợ cho công tác bảo vệ và phát triển rừng ven biển. Phát triển rừng ven biển rủi ro hơn nhiều lần so với rừng trên cạn; quỹ đất của rừng ven biển thường biến động do chịu sức ép từ quy hoạch của địa phương; tình trạng xâm lấn, phá rừng, nuôi trồng thủy sản diễn ra ở nhiều nơi bởi người dân mưu sinh; một số mô hình hay như nuôi tôm trong rừng ngập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long chưa có điều kiện phổ biến, nhân rộng.

Trên tinh thần đó, Tổng cục Lâm nghiệp đề ra các nhiệm vụ chính để thực hiện Đề án. Đó là, tiếp tục tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho các đối tượng liên quan rừng ven biển; xây dựng, phát triển, nâng cao giá trị của các mô hình kinh tế trong rừng ven biển, bảo đảm sinh kế cho người dân và thu hút hơn nữa nguồn lực xã hội hóa, nguồn lực quốc tế để bảo vệ, phát triển rừng ven biển…