Chị chưa nghe kể xuất xứ, nhưng vừa thấy mớ hạt dài, ngà ngà trút khỏi bị đựng đã đưa cả hai tay ra hứng. Hai bàn tay chị úp lấy nếp, rưng rưng như thể đang ôm tay người bạn quý lâu ngày không gặp.
- Hột chắc quá! Thơm quá héng! Ðỏ đỏ thêm chút là y chang hột gạo Bà Rên hồi xưa tụi mình gánh bán...
Biết chị lại sắp kể chuyện, em kéo cái cối đá xanh cùng cây chày gỗ ra, ngồi giã phèn chua ngay bên nia nếp.
Lòng cối đá dạo này ngày càng hẹp, chày gỗ đâm nửa trong nửa ngoài trầy trật xém nhầm tay. Nhưng chắc nhờ giọng kể chị, em nghe mình rộn ràng hơn cả tiếng chày.
- Hồi đó khổ vậy mà vui heng. Cứ chờ lúa nhà ai trong xóm gặt, đập xong, mình lại đi năn nỉ mua vài ba thúng. Làm gì được gạo trắng. Toàn gạo Bà Rên hột đỏ như gạo lứt, ăn dai nhách. Nhưng quý lắm. Mày ma lanh, toàn giả bộ làm mặt thảm "gạo nhà con sắp hết, chị em con sắp chết đói", ai thấy cũng thương, bán rẻ cho. Ðâu biết mờ sáng hai đứa quỷ quái gánh qua sông bán. Mà... sao hồi xưa mình gan. Sông mùa đó toàn nước lớn, đội thêm thúng gạo lội nước lên tới cổ. Mấy đận trời lụt mới đúng khổ. Ðường sông đi không được, phải lên cầu giành đường ray với xe lửa. Giờ nghĩ lại, tao thấy mình dại. Một mình đi được rồi, dắt chi mày theo. Sông dù sao cũng có hồn, gắn bó đất khó lâu ngày nên thương người khổ. Còn xe lửa, nó là máy móc, lại từ đẩu từ đâu tới, làm gì biết thương, biết tránh ai. Nhớ bữa đi sớm quá, buồn ngủ, mình không nghe tiếng nó? Phát hiện đường ray rung chậm chút nữa, hai đứa cộng hai gánh gạo thành cám nát bét. Chỉ biết nhắm mắt nhắm mũi chạy. Vừa sợ chết vừa sợ đổ hết gạo. Ðã vậy, chui qua bên đường cầu tránh xe xong, dòm qua, tao còn không thấy mày...
- Bữa đó, chị la muốn nứt cầu. Làm tui tưởng chị bị xe lửa chẹt trúng chỗ nào rồi, khóc quá trời quá đất.
Em hốt mớ phèn chua lại văng khỏi cối, nhớ lại vụ khóc lóc của hai chị em, phát cười đến chảy nước mắt sống.
Rớt ra hốt vô năm sáu lượt, rồi phèn chua cũng nát, tạm xài được. Hòa nước, chuẩn bị đâu ra đó xong, em rủ chị cùng rắc nước phèn lên nếp.
Chắc giống mắt em nhìn lòng cối đá, cái nia to với chị giờ cũng kèm nhèm. Bưng nia đi phơi, em bắt gặp trên thềm cả vũng nước chị rớt đổ. Nhờ chị ra đuổi giùm mấy con gà nhảy phá hỗn, lẳng lặng, em kiếm giẻ lau nhanh vũng nước.
Bên hàng rào, bóng chị đổ bên nia nếp vẫn thẳng thớm như những ngày gánh gạo chạy trước em. Nhưng nhìn kỹ, đường viền quanh bóng đã mờ dần, mỏng lét. Bấc cuối Chạp đang se nước phèn khô thấm vào lòng nếp. Em bỗng sợ ngày bóng chị thấm xuống, tan biến vào lòng cát trắng trước em.
Cả đêm, em trằn trọc với nỗi buồn sợ ấy. Giấc ngủ thấp thỏm dắt em đi đến tận lúc nắng rỏ qua khe cửa sổ.
Giật mình, ngó sang giường chị, mùng đã vén cao, mền gối đã xếp gọn. Em ra sân, ghé vườn rau, dòm cả xuống ao. Không thấy chị. Hoảng hồn, tưởng sắp khóc đến nơi, em bỗng sực nhớ còn một chỗ chưa kiếm: Căn bếp cũ, phân nửa ngôi nhà gạch còn sót hồi trước.
Ngôi nhà đó (em nghe kể) trước khi bị bom xẻ hai, có tám người. Sau này, đạn pháo lạc vô làng thêm trận nữa, còn lại hai chị em với mảnh vườn nát. Chòm xóm thương trét gắn giùm hai đứa nhỏ cái
vách đất.
Năm xây nhà mới, em từng cự nhau với chị đòi phá bỏ đống tàn phế gạch đất bốc mùi buồn.
"Mày nhìn cho kỹ vô! Ba mẹ mình ở đây. Mấy anh chị cũng ở đây!".
Em nhớ ngón tay chị chỉ thẳng mặt em, chỉ lên mái ngói, các bức tường. Lần duy nhất, chị làm em ớn lạnh.
Phân nửa ngôi nhà sót vì vậy thành bếp dự trữ, rồi thành kho chứa. Chỉ hai chị em biết, điều gì thật sự cất sau bốn bức tường.
Ðẩy cửa, quả thật em tìm thấy chị.
Lúi húi trong góc nhà, chị đang quét dọn cho miệng lò lớn đóng dày mạng nhện. Ðó là bể lò tự tay em đắp. Dạo đất đỏ chỗ động cát còn chưa bị xe công trình xúc trộm, mướn người gánh đất về, em trộn bùn, xếp gạch xây từ sáng tới chiều mới xong lò. Mấy nhà trong xóm mê làm lò xi-măng, nghe đâu chưa đốt được hai lần đã nứt tè le, hệt mặt đường liên thôn năm đó được bàn giao cho làng.
Thời nào cũng vậy. Sức bền xem ra luôn thuộc về lòng trung thực và bùn đất.
- Nhớ cái lò rang Nổ bên nhà chú Bảy Mốt hồi đó không? Cao gấp đôi lò mày chớ giỡn. Mình láng o. Chảo gang bắc trên miệng to phải bằng ba lần cái này.
Chùi rửa đến cái chảo vẫn treo mốc xì trên vách, chị phân bì với nó kích cỡ trong trí nhớ. Em không tham gia chuyện cùng chị vì mắc đốt lò.
Trấu và củi lá dừa khô mồi lép bép dậy lên từ tay em. Ngọn lửa đầy dần. Dát quầng sáng vàng cam lên vách lò đẹp mê mẩn. Chị nhắc nhiều đến hình dạng lò rang Nổ nhà hàng xóm. Còn em, chỉ nhớ nhất ngọn lửa.
Ðêm trước ngày em được ngắm lửa, trên đường xóm có trận bắn nhau. Sáng mai lính xuống hỏi, cả chị và em đều giả khờ, không khai bao nếp người trong xóm hốt giấu sau mảnh vườn nát. Nhờ biết khờ, hai chị em được chia hai bơ nếp đầy, đem qua góp với nhà chú Bảy Mốt kế bên dộng Cốm ăn Tết. Ðược ngồi chờ bếp lò rang nhà hàng xóm đỏ lửa trong lạnh rát hơi bấc quất, giờ với em, vẫn là ký ức ấm bụng nhất.
Nhắm mắt, em có thể hình dung ra từng đường nét ngọn lửa, trái lựu khổng lồ da vàng cam, gói trong lòng không chỉ những hạt than đỏ. Lựu chín, ngan ngát tỏa từ lòng trái mùi trấu cháy, mùi hăng nồng của vài thân củi chưa khô, cả mùi nếp rang bung thành hạt Nổ trắng trên miệng lò. Bụng rột rẹt sôi, em bắt gặp mình hệt ngày nhỏ, đang nuốt nước miếng.
Bốc phụ chị nắm nếp đã se đủ gió thả xuống lòng chảo, em chờ cùng chị đón lứa Nổ đầu tiên. Lụp bụp. Lụp bụp. Chuỗi âm thanh vui tai, tiếng nếp bung xòe rộ lên, dậy khắp lòng chảo nóng.
- Quét ra đi, Hai! Nổ bắn pháo bông rồi đó!
Chị chắc mải nghe Nổ reo, cầm cây chổi Giấy em đưa luống cuống thấy rõ. Loẹt xoẹt. Loẹt xoẹt. Ðầu chổi bện từ thân cây bụi đẩy rộn ràng từ lòng lên miệng chảo. Ðến phiên em run tay, cầm sắp tuột cái mâm nhôm hứng Nổ ra lò.
Nổ thơm quá! Thơm khỏe khoắn. Thơm giòn rụm. Mâm nhôm thơm. Tay em thơm. Nửa ngôi nhà còn sót thơm. Cơn đói trong trí nhớ cũng thơm.
Cùng giữ lại mâm Nổ chòng chành với em, còn có hai cặp tay nữa: một lớn, một nhỏ. Giống nhau như đúc từ mầu da thiếu ăn đến vẻ lấm lem. Bàn tay nhỏ còn vừa bưng mâm vừa len lén bốc Nổ ăn vụng.
Bàn tay đút cho miệng đói của đứa nhỏ ngày nào. Nhưng sao giờ lưỡi em tê bỏng, cổ họng em nghẹn sặc như mới nuốt trọng bụm Nổ nóng.
- Thắng đường chưa? Nhanh còn trộn Nổ chớ!
Lần này, chị lại là người gỡ em khỏi ký ức. Hai cặp tay đến từ quá khứ tan mất. Bắt lên một hạt Nổ, ngậm chặt, em chỉ nghe lạt phèo rã ra, buồn thiu.
Bông Nổ càng về lứa sau càng quéo đầu, ngả vàng, khô đét mùi già.
Buổi chiều, mâm Nổ tuổi già bưng ra cửa. Ðàn gà dưới sân, chị và em trên thềm, cùng hớn hở nhặt, mổ.
Nổ đã bung, nhưng đôi cái đầu vẫn còn đội nón trấu. Bỏ vào rổ xảo qua xảo lại trong gió, nón trấu không bay, là biết chỉ có thể gỡ bằng tay.
Gỡ được nửa mâm, chị chuyển tay ra sau đấm đấm lưng. Em giành nhau với bầy gà, lượm lại đám Nổ sạch mình lẫn liệu tưởng trấu ném xuống.
Sau cái Tết với nhà chú Bảy Mốt, chắc chị quên, em đã thôi không ước như hạt gạo Bà Rên nữa. Em thích giống hạt Nổ. Nổ không chỉ có cha có mẹ, có tay người chăm bẵm. Nổ còn được mặc áo đẹp, được ăn Tết.
Cái Tết không phải dậy sớm lội sông hay bị xe lửa rượt chạy trối chết. Không phải nhìn thúng gạo để dành, ngậm ngùi cắn củ khoai luộc. Không đói đến run tay, mờ mắt, chân lảo đảo trên đường cũng phải gánh, phải bước.
Và cái Tết, để biết hai chị em lại dắt díu nhau đi thêm được đoạn nữa rồi, trong quãng đường mồ côi.
- Thắng đường đi chớ, mậy! Còn trộn Nổ, dộng Cốm nữa.
Em chỉ chị xoong nước đường đang chờ nguội trong góc cửa. Lần chỉ đã là thứ ba trong chiều.
- Ờ. Dạo này sao hỏi đâu quên đó.
Chị cười lỏn lẻn, bỏ sang khuấy xoong nước vàng xuộm.
- Thắng đường đó nghen. Là phải thắng bằng đường tán, đường cát trắng toàn ra mầu lợt nhách, không đẹp. Ngồi coi đường tới ngó vậy mệt dữ lắm. Phải dính luôn với bếp lò. Khuấy miết luôn. Ngó lơ, ngưng khuấy chút thôi, đường keo lại, cháy khét liền. Muốn biết đường tới chưa thì lấy cái muỗng kéo...
- Lấy đầu đũa nhúng vô đường chớ, Hai! - Ðành hanh xấu tính bỗng cạy miệng em chui ra, xảnh xẹ chỉnh lại chị. - Mình nhúng xong kéo lên liền. Hễ thấy có sợi dài lên theo tức là đường tới rồi, nhắc xoong xuống.
Gật gù, như không thèm chấp lấn lướt ra bộ "chị Hai" của em, chị hết nhúng rồi ké cái vá đang cầm, như thể cố tìm một sợi tơ từ xoong đường nguội ngắt.
Xoong đường ấy, em mới nhớ ra quên cho vô gừng xắt với mấy lát thơm. Cốm nhai thiếu âm ấm mùi gừng, vắng chua chua ngọt ngọt vị thơm ngào đường, sao ra được Cốm?
Em bắt suy nghĩ em tìm cách cứu xoong đường. Hệt đứa nhỏ mau chán, thoắt cái đã thấy nó vù ra đầu làng. "Nhà nhận dộng Cốm mướn tuốt ngoài đó. Mai phải kiếm đứa nhỏ nào nhờ xách Nổ, bưng đường ra ngoải". Suy nghĩ dặn em.
Giá là ngày trước... Bụng đói gánh gạo từ sáng tới chiều còn được, chân em xá gì một đoạn đường ra đầu làng.
Giá ngày trước... Làm lụng, bán buôn, thay ba thay mẹ nuôi em chị còn làm được. Xá gì nhớ vài ba khâu làm Cốm.
Và trước... Hai chị em đâu lẫn lộn quên nhớ. Năm gặp nhau được mấy lần đâu, sao cứ nhắc ngày xưa?
Hai chín tháng Chạp, đứa cháu xuống đón chị.
Cốm chưa kịp gói giấy bóng kính, chị cho luôn Cốm trần vô bịch ni-lông, gút miệng.
- Dì coi. Hết nói nổi mẹ con. Giờ Tết ai ăn Cốm nữa đâu, mua về chi không biết.
Ðứa cháu len lén nói với em. Ðiệp khúc than thở chưa đi chúc Tết sếp năm nay bị ngưng ngang.
Lật đật theo vội vàng nó, chị ra xe. Cửa xe đóng. Chắc sực nhớ gì đó, em thấy chị đập đập lên mặt cửa kính, bắt con mở.
- Hay em lên thành phố ăn Tết với chị?
Thò đầu ra, chị hỏi em. Tha thiết. Chờ đợi. Mắt bỗng đỏ hoe lên, chực trào nước.
Câu hỏi không năm nào tạm biệt em không nghe.
Xe đi. Vào thềm ngồi gói Cốm, em chợt nhớ chưa nhắc đứa cháu để ý mẹ, dạo này chị như càng quên nhiều hơn. Năm sau xuống chơi, chỉ mong chị đừng quên nhắc em làm Cốm.
Trong vũng nắng dưới thềm, trước em, có bóng một bà già lưng còng, tay cầm viên Cốm vuông vức, khẽ cắn. Vị ngọt gắt, nồng nàn loang nhanh trong chiều đầy gió bấc..
Tết rồi... Biết ông già hàng xóm lên phố có được ăn Cốm?