Nhân vật-Đối thoại

PGS, TS Đỗ Ngọc Thống: “Bộ sách giáo khoa thống nhất phải vượt lên các bộ sách trước đó”

Bảo đảm cung cấp một bộ sách giáo khoa (SGK) thống nhất toàn quốc, phấn đấu tới năm 2030 cung cấp miễn phí SGK cho tất cả học sinh là một trong những yêu cầu của Nghị quyết số 71 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, đang được dư luận quan tâm.

PGS, TS Đỗ Ngọc Thống.
PGS, TS Đỗ Ngọc Thống.

Làm thế nào để biến chủ trương đúng đắn này thành hiện thực, trong bối cảnh ba bộ SGK hiện hành đều đã được thẩm định và sử dụng? Chung quanh vấn đề này, Nhân Dân hằng tháng có cuộc trao đổi với PGS, TS Đỗ Ngọc Thống, nguyên Phó Vụ trưởng Giáo dục trung học (Bộ Giáo dục và Đào tạo), Chủ biên Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 - môn Ngữ văn, Tổng Chủ biên bộ SGK ngữ văn cấp THPT, bộ Cánh Diều.

Thưa ông, Nghị quyết 71 của Bộ Chính trị yêu cầu có một bộ SGK thống nhất toàn quốc. Vậy có thể lấy một trong ba bộ hiện nay làm “bộ sách duy nhất” không? Nếu không, theo ông, khó khăn lớn nhất là gì và lộ trình thời gian để hoàn thành sẽ ra sao?

Nghị quyết 71 đề cập đến nhiều vấn đề lớn, từ giáo dục mầm non, phổ thông cho đến đại học. Nghị quyết này tiếp nối tinh thần đổi mới căn bản, toàn diện của Nghị quyết 29 với nhiều nội dung rất đột phá. Riêng SGK thì có thể nói là “quay lại chỗ cũ” với chủ trương một bộ SGK thống nhất trên toàn quốc. Nhưng đôi khi quay lại chỗ cũ cũng là một bước đột phá chăng?

Hiện nay có ba bộ SGK Tiếng Việt-Ngữ văn đang được lưu hành là Chân trời sáng tạo, Cánh diều, Kết nối tri thức với cuộc sống. Tôi cho rằng không thể lấy bộ này mà bỏ bộ kia được, vì về mặt khoa học và thực tiễn, cả ba bộ SGK đều đã được Hội đồng thẩm định quốc gia thông qua, Bộ Giáo dục & Đào tạo công nhận đủ tiêu chuẩn phát hành trong nhà trường. Mỗi bộ có tư tưởng sư phạm, cấu trúc bài học khác nhau và mỗi bộ đều có ưu, nhược điểm riêng... Giải quyết như thế nào thì lãnh đạo Bộ sẽ quyết định.

Theo tôi, để đáp ứng yêu cầu của Nghị quyết 71, Bộ cần đứng ra tổ chức biên soạn một bộ SGK thống nhất, dù sẽ gặp nhiều khó khăn (tác giả, kinh phí, thời gian...). Tuy nhiên với tình hình mới, trong buổi làm việc với lãnh đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày 9/9 vừa qua, Tổng Bí thư Tô Lâm đã yêu cầu cần có một bộ SGK chung sớm nhất. Nếu muốn có bộ SGK chung vào năm học 2026-2027, đủ cho cả 12 lớp, tôi nghĩ chỉ có cách là mỗi môn học chọn và ghép sách theo cấp học hiện có thành bộ sách chung. Cách này khả thi hơn cả, vì tất cả các sách đều dựa vào chương trình, nhưng mỗi cấp học có tính độc lập khá cao nên có thể lấy sách của 3 bộ ở 3 cấp ghép lại thành 1 bộ mà không sợ mâu thuẫn hay trùng lặp gì. Nếu theo hướng này chỉ có thể ghép SGK mỗi môn cả cấp, không ghép theo lớp hay các chương/phần được. Thí dụ với môn Ngữ văn, có thể lấy sách Tiếng Việt của bộ A, sách Ngữ văn THCS của bộ B và sách Ngữ văn THPT của bộ C. Sách của 3 bộ đều đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt, đã được thực hiện 1 vòng, chỉ cần điều chỉnh lại một vài chỗ cần thiết, làm và in lại bìa mới... Chưa kể, không mất nhiều công sức trong việc bồi dưỡng; cũng không mất kinh phí biên soạn mới, tận dụng được các tài nguyên hiện có.

Nhiều người cho rằng bộ sách do Bộ Giáo dục và Đào tạo biên soạn phải tốt hơn các bộ hiện nay. Ông nghĩ sao về kỳ vọng đó và trong bối cảnh hiện nay, việc phân biệt chương trình với SGK có ý nghĩa thế nào?

Rõ ràng kỳ vọng là như vậy. Về mặt triết lý, tư tưởng, cấu trúc, người ta mong đợi bộ sách này phải vượt lên 3 bộ sách trước đó vì được biên soạn sau, lại do Bộ đứng ra làm, nên chắc chắn yêu cầu sẽ cao hơn. Tuy nhiên như đã nêu ở trên, với bối cảnh mới, để có bộ SGK chung theo cách ghép các cấp của 3 bộ hiện hành, thì khả thi và khả dĩ hơn.

Mặc dù vậy, điều quan trọng vẫn phải phân biệt chương trình và SGK. Chương trình là pháp lệnh, là yêu cầu bắt buộc thống nhất, là cơ sở pháp lý quan trọng nhất để tổ chức dạy học và kiểm tra đánh giá. SGK (dù chỉ 1 bộ) cũng chỉ là học liệu, nhưng phải tránh tình trạng đánh đồng chương trình với SGK. Tôi rất thích câu thơ của Tố Hữu: “Trăm đường, một hướng, nở muôn hoa”. Một hướng là mục tiêu chương trình, còn trăm đường là phương tiện để đạt mục tiêu ấy.

z7000495375757-a916344ebafda0554d43877fdafed00c.jpg
Yêu cầu đột phá trong giáo dục phải đặt trọng tâm đổi mới phương pháp dạy học, không chỉ ở nội dung sách giáo khoa.

Nhiều năm gắn bó với môn Ngữ văn, ông nhìn nhận vai trò của môn học này ra sao trong xây dựng nhân cách và trí tuệ con người Việt Nam? Và thực tế dạy - học văn hiện nay có những khó khăn gì?

Nghiên cứu lịch sử dạy văn trong nhà trường từ thời phong kiến đến nay, tôi thấy, mục tiêu dạy văn luôn có hai sứ mệnh. Thứ nhất là dạy người ta biết đọc, biết viết - công cụ để học tập và trưởng thành. Thứ hai là bồi dưỡng tình cảm, tư tưởng: học văn là học làm người, biết lẽ phải, cái đẹp, nuôi dưỡng lý tưởng và phát triển nhân cách...

Thời nào môn văn cũng rất quan trọng trong việc hình thành năng lực và phẩm chất con người. Chỉ khác là trong kỷ nguyên mới, cách giảng dạy phải thay đổi. Đơn cử, khi AI xuất hiện, nếu dạy theo kiểu cũ thì khó đáp ứng được nữa. Yêu cầu đột phá trong giáo dục sắp tới vẫn phải đặt trọng tâm ở đổi mới phương pháp dạy học, chứ không chỉ ở nội dung SGK.

Dù có 1 bộ sách, giáo viên cũng cần tìm hiểu kỹ hơn chương trình 2018. Chú trọng mục tiêu hình thành năng lực, dạy học sinh phương pháp đọc, cách tiếp cận tác phẩm. Nếu không biết cách đọc thì không thể khám phá được cái hay, cái đẹp.

Việc triển khai Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 cũng còn nhiều hạn chế: bồi dưỡng giáo viên chưa tốt, nhiều người chưa hiểu hoặc chưa tìm hiểu kỹ chương trình và SGK mới, vẫn có giáo viên dạy máy móc. Thêm vào đó, chất lượng đào tạo ở các trường sư phạm cũng cần xem xét. Trước đây, giảng văn có cái hay, nhưng thầy toàn đọc hộ, cảm thụ hộ, phân tích hộ; học sinh chỉ nghe, không vận dụng được. Đổi mới hôm nay là để khắc phục hạn chế đó.

Năm 2013, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI ban hành Nghị quyết 29 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; năm 2014 Quốc hội thông qua Nghị quyết 88 về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông và Bộ Chính trị vừa ban hành Nghị quyết 71 về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo. Theo ông, với những nghị quyết này, nền giáo dục Việt Nam đã và đang đi đúng hướng chưa? Và trong tiến trình đổi mới, yếu tố nào thật sự là trung tâm: học sinh, thầy giáo hay sách giáo khoa?

Tôi nghĩ nền giáo dục nước ta từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945 đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng; các lần đổi mới đều dựa trên các nghị quyết, chính sách của Đảng và Nhà nước thì không thể sai hướng. Các Nghị quyết nêu trên đều hướng vào mục tiêu tạo sự chuyển biến rõ rệt trong giáo dục. Nếu có gì chưa ổn, chưa tốt thì phần lớn là do quá trình thực hiện đưa Nghị quyết vào cuộc sống.

Quan điểm giáo dục hiện nay là lấy học sinh làm trung tâm, nghĩa là từ xây dựng chương trình, biên soạn SGK đến cách dạy, cách học đều phải xuất phát từ học sinh. Lấy học sinh làm trung tâm phải bắt đầu từ đặc điểm tâm sinh lý của học sinh để đề ra nội dung, phương pháp, cách thức đánh giá phù hợp, hiệu quả và với môn Ngữ văn thể hiện trong việc lựa chọn văn bản- tác phẩm văn học và cách thức dạy học. Nhưng nói như vậy không có nghĩa là coi nhẹ vai trò người thầy. Người thầy vẫn đặc biệt quan trọng.

gen-h-z6999858467230-edc8e9afedeabb04467755bba55c2967.jpg
Một tiết học tại Trường THCS Tô Vĩnh Diện (Hà Nội).

Nhân dịp năm học mới, ông có dự cảm gì về sự phát triển của ngành giáo dục trong thời gian tới?

Đã từ lâu, Đảng và Nhà nước luôn xem giáo dục là quốc sách hàng đầu. Trên thế giới, tất cả các dân tộc muốn tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc đều phải đầu tư vào giáo dục. Tư tưởng, đường hướng ưu tiên cho giáo dục trong thời kỳ mới, chúng ta đã có trong các nghị quyết của Đảng và chính sách của Nhà nước.

Điều khiến tôi băn khoăn là giữa chủ trương, đường lối với thực tiễn triển khai vẫn còn một khoảng cách đáng kể. Chủ trương thì rất đúng đắn, nhưng quá trình thực hiện nhiều khi chưa tốt, nên kết quả không đạt như mong muốn.

Trên thực tế, vấn đề mấu chốt nằm ở khâu tổ chức thực hiện sao cho thật sự hiệu quả, nếu triển khai thiếu đồng bộ, chắp vá thì khó đạt được mục tiêu cuối cùng. Trong đó, yếu tố con người vẫn mang tính quyết định. Giáo dục cũng vậy, chỉ khi có những con người đủ năng lực mới có thể biến các tư tưởng lớn thành hiện thực.

Ví thế, yếu tố then chốt nhất là nhận thức và hành động của đội ngũ giáo viên phải thay đổi. Tư tưởng có thể đã mang tính đột phá, nhưng nếu giáo viên không đổi mới thì việc triển khai vẫn rất khó khăn. Bên cạnh đó, có cán bộ quản lý giáo dục một số nơi vận hành còn cứng nhắc. Nếu thiếu dân chủ, cứ giữ lối làm việc cũ, thì công cuộc đổi mới sẽ vô cùng gian nan.

Xin trân trọng cảm ơn ông!

Có thể bạn quan tâm