“Bể chứa” carbon từ thảm cỏ biển

Trong bối cảnh Việt Nam đang hình thành tín chỉ carbon cho thị trường, các nhà khoa học của Viện Tài nguyên và Môi trường biển (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) đã nghiên cứu và đưa ra bộ số liệu, thông tin hoàn chỉnh về hàm lượng, trữ lượng carbon hữu cơ của các thảm cỏ biển nước ta. Kết quả này góp phần cung cấp luận cứ khoa học để Việt Nam chuẩn bị tham gia vào thị trường carbon trong khu vực và trên thế giới.
0:00 / 0:00
0:00
Cán bộ nghiên cứu đang khảo sát một thảm cỏ biển.
Cán bộ nghiên cứu đang khảo sát một thảm cỏ biển.

Lâu nay, chúng ta thường nhắc đến rừng như là “bể chứa” carbon xanh thông qua quá trình thu giữ CO2 từ bầu khí quyển. Trong khi đó, một hệ sinh thái khác cũng mang lại hy vọng cho cuộc khủng hoảng môi trường nhưng chưa được quan tâm nhiều là thảm cỏ biển. Đó là lý do Tiến sĩ Cao Văn Lương và các cộng sự tại Viện Tài nguyên và Môi trường biển bắt tay nghiên cứu, cung cấp thông tin hoàn chỉnh về số lượng thành phần loài, diện tích phân bố của 50 thảm cỏ biển tiêu biểu và hàm lượng, trữ lượng carbon hữu cơ của các thảm cỏ Việt Nam thông qua đề tài “Nghiên cứu xác định trữ lượng carbon xanh trong các thảm cỏ biển ở vùng ven bờ Việt Nam”.

Tiến sĩ Cao Văn Lương, chủ nhiệm đề tài cho biết, thảm cỏ biển là môi trường sống quan trọng của sinh vật thủy sinh ven bờ, nhất là đối với vùng biển ven bờ nhiệt đới, đồng thời hệ sinh thái cỏ biển còn được ghi nhận với vai trò rất lớn trong điều chỉnh môi trường bởi khả năng lưu trữ lượng lớn carbon hữu cơ. Theo ước tính, khả năng lưu trữ carbon hữu cơ của cỏ biển trên toàn cầu khoảng 19,9 tỷ tấn, cao hơn 2-3 lần so với rừng thường xanh tính trên cùng đơn vị diện tích; tốc độ hấp thụ carbon nhanh hơn 35 lần so với rừng mưa nhiệt đới. Bảo tồn và phát triển các thảm cỏ biển được xem là một giải pháp tự nhiên hỗ trợ các hoạt động nhằm giảm nhẹ và thích ứng với biến đổi khí hậu.

Hội nghị quốc tế về cỏ biển lần thứ III họp tại Manila (Philippines) vào tháng 4/1998 đã nhất trí thông qua “Hiến chương cỏ biển” gửi Tổng Thư ký Liên hợp quốc và các nước có biển cần quan tâm bảo vệ và phát triển nguồn lợi cỏ biển. Việc phục hồi hệ sinh thái quan trọng này cũng đã được đưa vào kế hoạch biến đổi khí hậu khi 159 quốc gia có cỏ biển đã ký kết Thỏa thuận Paris năm 2015.

Việt Nam có hệ thực vật thủy sinh ven biển phong phú, được coi là hệ sinh thái carbon xanh khổng lồ. Thế nhưng, những nghiên cứu thành phần loài, phân bố, diện tích, trữ lượng khả năng hấp thụ, lưu trữ carbon của các hệ sinh thái dưới nước, trong đó cỏ biển còn hạn chế. Trong các báo cáo kiểm kê carbon quốc gia, cỏ biển vẫn chưa được quan tâm đúng mức so với các thảm thực vật trên cạn.

Nhóm nghiên cứu đã lựa chọn nghiên cứu thảm cỏ biển tại các vùng biển đại diện cho hệ sinh thái biển, sử dụng thiết bị lặn ngầm, thu thập mẫu cỏ biển và trầm tích biển, bảo quản lạnh đem về sấy khô, phân tích bằng máy tự động để xác định hàm lượng carbon hữu cơ trong cỏ biển và trầm tích biển. Trên cơ sở tổng hợp số liệu đã biết, đề tài xác định được 50 thảm cỏ biển tiêu biểu, phân bố trên tổng diện tích 21.885 ha tại khắp các vùng ven biển, đảo (xa nhất là quần đảo Trường Sa (Khánh Hòa), với 15 loài cỏ biển. Phần lớn các loài cỏ biển được tìm thấy ở vùng triều giữa, vùng triều thấp, ở độ sâu trung bình từ 3-5m. Tại 4 khu vực biển nghiên cứu đã xác định được 10 loài cỏ biển phân bố trên tổng diện tích 8.623,4 ha, từ đó nhóm bổ sung 4 bản đồ phân bố chi tiết các thảm cỏ biển tại đầm Hà Dong (Quảng Ninh), cửa Gianh (Quảng Bình), vịnh Vân Phong (Khánh Hòa), đảo Phú Quốc (Kiên Giang) vào bộ cơ sở dữ liệu bản đồ, sơ đồ phân bố các thảm cỏ biển tại Việt Nam.

“Bể chứa” carbon từ thảm cỏ biển ảnh 1

Thảm cỏ biển và rạn san hô tại bãi Thuyền Chài (quần đảo Trường Sa). Ảnh | Cao Văn Lương (chụp năm 2019).

Kết quả nghiên cứu cho thấy, thảm cỏ biển có xu hướng suy giảm về số lượng thành phần loài, diện tích phân bố, độ phủ. Đánh giá tình trạng sức khỏe hệ sinh thái cỏ biển thì thảm cỏ biển tại Vịnh Vân Phong có tình trạng tốt nhất trong số 4 khu vực nghiên cứu, thảm cỏ biển tại Phú Quốc có chỉ số sức khỏe thấp nhất. Nguyên nhân của tình trạng nêu trên là do tác động của các hoạt động khai thác thủy sản, giao thông thủy, nuôi trồng thủy sản và hoạt động du lịch ven biển.

Kết quả quan trọng nhất của đề tài là đã xác định được trữ lượng carbon hữu cơ tại 50 thảm cỏ biển tiêu biểu nêu trên. Nhóm nghiên cứu đã căn cứ trữ lượng carbon hữu cơ trung bình trên một ha thảm cỏ biển tại 4 khu vực nghiên cứu để kết hợp tính toán cho diện tích của 50 thảm cỏ biển. Theo đó, tổng trữ lượng carbon hữu cơ trong các thảm cỏ biển tại 4 khu vực nghiên cứu đạt 346.032,6 tấn (tương ứng 40,12 tấn/ha). Ước tính tổng trữ lượng carbon hữu cơ của các thảm cỏ biển Việt Nam đạt 878.026 tấn; quy đổi theo định lượng quốc tế thì tương ứng 3.222.356 tấn CO2 hoặc 3.222.356 tín chỉ carbon; giá trị tương đương 64.447.123 USD. So sánh với các nước láng giềng khu vực Đông Nam Á, trữ lượng carbon hữu cơ từ các thảm cỏ biển ở Việt Nam thấp hơn nhiều so với Philippines và Indonesia nhưng cao hơn khá nhiều so với Malaysia và Myanmar.

Theo Tiến sĩ Cao Văn Lương, đây là nghiên cứu đầu tiên của Việt Nam xác định trữ lượng carbon trong thảm cỏ biển Việt Nam và có ý nghĩa thực tiễn. Tại Hội nghị các bên liên quan về biến đổi khí hậu lần thứ 26 (COP26), Việt Nam đã thể hiện trách nhiệm của mình đối với vấn đề chống biến đổi khí hậu và có cam kết mạnh mẽ với nỗ lực đạt được mục tiêu trung hòa phát thải khí nhà kính về mức 0 vào năm 2050. Để đạt mục tiêu đã cam kết, bên cạnh các giải pháp công nghệ và kỹ thuật thì bảo vệ và phát triển các hệ sinh thái tự nhiên, trong đó có các thảm thực vật là một trong các giải pháp then chốt. Việc tính toán và xác định được trữ lượng carbon hữu cơ trong các thảm cỏ biển ven bờ Việt Nam sẽ góp phần bổ sung cơ sở khoa học quan trọng cho nỗ lực chung của Việt Nam trong giảm phát thải khí nhà kính và cam kết tại Hội nghị COP26. Các nhà quản lý cần có giải pháp quản lý, sử dụng hiệu quả và bền vững hệ sinh thái cỏ biển; cần thiết xem xét đánh giá mức độ đóng góp của hệ sinh thái cỏ biển vào các tính toán hạn ngạch, tín chỉ carbon chung.

Mặc dù đã có cơ sở dữ liệu ban đầu về bản đồ các thảm cỏ biển ven biển Việt Nam và ước tính tổng diện tích của chúng, nhưng thông tin về thảm cỏ biển ở các khu vực biển, đảo ngoài khơi, thí dụ như một số quần đảo ở Vịnh Thái Lan, vẫn còn thiếu. Vì vậy, Tiến sĩ Cao Văn Lương cho rằng, cần tiếp tục phân tích và lập bản đồ chi tiết các thảm cỏ biển ở Việt Nam nói chung, ở một số đảo ngoài khơi Việt Nam nói riêng. Việc theo dõi, quan trắc dài hạn các thảm cỏ biển cũng cần được quan tâm tổ chức thực hiện nhằm mở rộng hiểu biết về sự phát triển và xu hướng biến động hệ sinh thái cỏ biển.