Bài dự thi "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh"

Người bắc cầu ca dao

"Ước gì sông hẹp tày gang/Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi..." Ai cũng biết chiếc cầu hư ảo ấy chỉ tồn tại trong ca dao, cổ tích. Thế mà, ở miền vải thiều Lục Ngạn (Bắc Giang), có một anh "Bộ đội Cụ Hồ" đã dành cả đời để bắc những cây cầu cho người nghèo. Ðặc biệt hơn, trong số đó có một "tác phẩm" được cất Lên trong suốt 25 năm nhờ vào sức mạnh của tình yêu và lòng nhân hậu. Ðó là câu chuyện "bắc cầu dải yếm" trên sông Lục Nam của Thượng sĩ Lê Văn Chương.

Cách trở đò giang

Nhà nghèo, cậu học trò Lê Văn Chương chỉ được học hết lớp bảy rồi phải gác lại mơ ước trở thành kỹ sư cơ khí. Năm 1979, anh xung phong vào quân ngũ, đóng quân tận Cao Bằng. Những năm tháng khoác áo "Bộ đội Cụ Hồ", chiến sĩ Chương luôn tâm niệm: "Là lính thời bình, chúng tôi ý thức vừa làm sao rèn luyện tốt để có đủ sức mạnh phòng vệ, vừa phải biết làm kinh tế giúp dân". Sẵn niềm đam mê cơ khí, Chương hăng hái mày mò tự sửa chữa nhiều thiết bị trong đơn vị mỗi khi hư hỏng.

Giữa đại ngàn non nước Cao Bằng, chàng lính trẻ Lê Văn Chương không nguôi nhớ quê, nhớ người con gái mang cái tên thuần hậu Dương Thị Bộ ở Mỹ An (một xã nằm bên tả ngạn sông Lục Nam, còn bên kia là xã Phượng Sơn quê anh). Anh gặp Bộ thật tình cờ khi cùng trên một chuyến đò chở đầy vải, rồi hai người thương nhau lúc nào không biết.

Tranh thủ những lần về phép ngắn ngủi, anh lập tức chạy bổ ra bến sông, nhưng đến nơi thì lại... không gặp đò. Bên kia sông, người anh yêu đang thả tóc, nhận ra màu áo xanh quen thuộc đứng ngóng bên bến Kim mà không sao sang được. Tiếng gọi của đôi lứa yêu nhau cứ bị át đi giữa mênh mang sóng nước. Chương dõi mắt xa xăm bồi hồi: "Thời gian nghỉ phép ngắn ngủi, chờ đò chẳng biết đến khi nào, nhớ cô ấy quá, tôi ào xuống sông và cứ thế bơi." Bờ bên kia Bộ cũng ào theo. Phút giây gặp nhau ngắn ngủi nhưng cũng đủ xua tan nỗi nhớ da diết bấy lâu.

Hiểm nguy cách trở đò giang vẫn không bằng rào cản vô hình của định kiến, khiến biết bao đôi trai gái ở Phượng Sơn và Mỹ An lỡ duyên chồng vợ. Bên này sông, gia đình Chương phản đối quyết liệt khi biết chuyện của hai người. Bên kia sông, bố mẹ Bộ cũng "cấm cửa" con gái mình. Ðến một ngày người yêu hẹn ra bến sông nức nở trên vai anh: "Mình phải chia tay nhau thôi. Bố em bảo người bên sông muốn làm rể Mỹ An phải bắc cho dân làng một cây cầu...". Chưa dứt lời, Chương lầm lì đi thẳng về phía làng Ðông Mai. Trước bố mẹ người yêu, anh dứt khoát: "Thưa bác, cháu là bộ đội, cháu hứa sẽ làm được cầu cho Mỹ An." Như chỉ chờ câu ấy, ông cụ vuốt râu cười khà khà, rồi sai con gái đi làm cơm.

Mùa thu 1981, chiến sĩ Lê Văn Chương xin phép đơn vị tranh thủ về quê cưới vợ. Ngày rước dâu, hai họ vẫn phải lụy đò. Lời hứa về một cây cầu nối đôi bờ sông Lục vẫn canh cánh lòng anh...

Những cây cầu "dải yếm"

Năm 1983, Thượng sĩ Chương phục viên về quê làm ruộng, cuộc sống bộn bề lo toan, song lời hứa nhân danh "Bộ đội Cụ Hồ" vẫn đinh ninh trong lòng. Anh mở một cửa hàng nhỏ, nhận sửa chữa, đóng thuyền cho bà con, có lúc sửa giúp có lúc chỉ lấy ít tiền mua vật liệu. Biệt hiệu "Chương gò" cũng được người chợ Kim quen gọi từ đó. Có thuyền, có đò nhưng nỗi lo đắm đò, đuối nước mãi vẫn còn đeo bám dân làng. Hình ảnh những chiếc thuyền nhỏ cứ chòng chành mỗi khi sóng cả gió cường như đời những người nghèo quê vải luôn làm anh trăn trở.

Một bận, có người khách lạ miền ngược tìm đến Chương "gò" ngỏ ý đặt anh làm một chiếc cầu phao. Dầu rất muốn thử sức, nhưng chưa tự tin với khả năng của mình, anh không dám nhận lời. Chương lặng lẽ sắm chiếc máy ảnh cũ rong ruổi đạp xe khắp nơi tìm đến cầu phao, chụp ảnh, ghi chép, đêm về lại thức trắng đo đạc, kẻ vẽ. Anh quyết chí phải làm bằng được cầu cho người dân bớt khổ. Từ đó, bẩy cầu phao quy mô nhỏ mang "thương hiệu" Chương gò lần lượt ra đời, vắt mình qua những khúc sông hẹp miền núi.

Khăn gói "trèo đèo lội suối" bắc cầu cho thiên hạ, nhưng cây cầu nối Mỹ An với Phượng Sơn vẫn chưa thể thành hiện thực khiến Chương dằn vặt. Cũng bởi, đoạn sông này vừa sâu vừa rộng, để xây dựng được cầu phao thật an toàn đòi hỏi phải có nhiều kinh phí và kỹ thuật cao hơn hẳn những cây cầu trước.

Bất ngờ vào mùa mưa bão năm 2003, con đò chở đầy vải vừa rời bến Kim, ra đến giữa sông thì chìm nghỉm khiến ba người chết và nhiều người bị thương. Ít lâu sau, người bố vợ kính yêu cũng qua đời, Chương "gò" hạ quyết tâm phải sớm làm cho quê mình một cây cầu thật chắc chắn. Chương huy động vợ con và họ hàng, bạn bè vào cuộc. Ðôn đáo vay mượn không đủ, anh bán cả mấy héc-ta vải để có tiền tỷ làm cầu. Có được kinh phí, lại gặp vướng mắc về thủ tục hành chính. "Vì đây là đoạn sông lớn do Cục Ðường sông trực tiếp quản lý, tôi phải rất vất vả để hoàn tất thủ tục cấp phép dựng cầu, rồi kiểm định chất lượng". Nói về khó khăn, nhưng giọng anh đầy hào hứng bởi "cứ làm được cầu là vui rồi".

Tận mắt chứng kiến một mình anh xoay trần mở khóa "tách" chiếc cầu ra làm hai để cho những tàu, thuyền lưu thông mới thấy hết "công nghệ" dựng cầu phao của Chương "gò" thật độc đáo. Cầu dài hơn trăm mét, rộng ba mét, trọng tải hơn bốn tấn, nhưng do thiết kế dựa vào lực dòng chảy nên chỉ mất vài phút để tách đôi cho tàu thuyền lớn lưu thông. Thuyền nhỏ vẫn qua lại bình thường vì gầm cầu cao cách mặt sông tới hai mét.

Chúng tôi trở lại Phượng Sơn lúc vải đang chín rộ. Chợ Kim giờ đã là Phố Kim, một trong hai đầu mối thu mua vải lớn nhất Lục Ngạn, xe vào xe ra nhộn nhịp. Nhắc đến người làm cầu phao, đồng chí Hoàng Ðức Cường, Phó Chủ tịch UBND xã, hồ hởi: "Tôi cũng không biết anh Chương đã làm bao nhiêu cây cầu rồi. Từ ngày có cầu sang Mỹ An thì dù mùa mưa bão, người và xe cộ cứ vô tư mà đi... Không chỉ giỏi làm cầu đâu, anh ấy giỏi cả làm kinh tế nữa đó".

Tám năm nay, cầu phao "ông Chương" đã trở thành con đường vui cho học trò đến lớp, những chuyến xe đầy ắp vải thiều tấp nập lại qua, đường sang chợ Kim bán mớ tôm mớ tép của bà con nghèo Mỹ An cũng vơi bớt nhọc nhằn. Và cây cầu vững chãi trên dòng sông Lục Nam hiền hòa sẽ mãi là chứng tích của tình yêu và tâm nguyện của một người luôn sâu nặng nghĩa tình với quê hương.

*  Nhiều người còn nhớ vào một trưa nắng đầu năm 2008, có hai cậu sinh viên Ðăng và Khoa nhễ nhại mồ hôi hỏi thăm người đi chợ Kim: "Chúng cháu muốn tìm nhà thầy Chương học nghề làm cầu phao". Ðể rồi sau hơn một năm, quê hương hai thanh niên ấy xuất hiện cây cầu đầu tiên vươn mình ngang sông Bứa đoạn qua xã Quang Húc (Tam Nông - Phú Thọ). Từ đó, dân làng quen gọi "cầu sinh viên" để chỉ đường mỗi khi có khách ở xa về.