Pi-ten là một làng ven biển ở Hà Lan có những con đê khổng lồ cao tới 13 mét và phần chân đê dày tới 46 mét. Nếu leo tới mặt đê, bạn có thể thấy sóng đập vào bức tường đá và bê-tông được gia cố và có thể đánh giá được ngôi làng này nằm ở mức thấp thế nào so với mặt biển và dễ bị tổn thương tới mức nào. Chính quyền Hà Lan đã tôn cao đê vài lần từ năm 1976, khi đó nó chỉ cao bằng nửa bây giờ để đương đầu với bão và xói mòn bờ biển, nhưng vẫn chưa đủ.
Với chừng nửa lãnh thổ nằm dưới mực nước biển, và phần lớn có nguy cơ ngập lụt từ sông và biển, Hà Lan đang chịu ảnh hưởng biến đổi khí hậu hết sức nghiêm trọng. Tình trạng ấm lên toàn cầu gây ra tình trạng nước biển dâng từ 10 cm tới một mét trong suốt thế kỷ này, trong lúc lượng mưa tăng, gia tăng nguy cơ lụt lội đối với các thành phố nằm ở vùng đất thấp phía sau đê biển. Hà Lan dự định đầu tư thêm 10 tới 25 tỷ USD vào phòng, chống lụt và phòng hộ biển trong thế kỷ tới và đã dự thảo kế hoạch nâng cấp đê sông, các trạm bơm, và đê biển.
Khi nói tới quản lý nước và phòng lụt, có lẽ không nước nào nhiều kinh nghiệm như Hà Lan. Hà Lan đã chiến đấu với biển Bắc, sông Ranh và sông Mơ-xơ cả nghìn năm ngay từ thời các nông dân La Mã rút nước đầm lầy để canh tác. Tuy nhiên, những vùng đất đã được rút nước có xu hướng hạ thấp dần, và phần lớn nằm dưới mực nước biển và người Hà Lan nhanh chóng bao quanh những cánh đồng và thành phố bằng những con đê và kênh đào, sử dụng cối xay gió để bơm nước, tháo nước, giữ cho đất được khô ráo. Trong thế kỷ trước, người Hà Lan đã bịt toàn bộ biển Giai-đơ bằng một con đê khổng lồ, biến vùng biển này trở thành hồ nước ngọt Ây-xơn khổng lồ. Các tỉnh mới được tạo ra từ những vùng đất trước đây là biển bằng các con đê , bơm và kênh đào. Người Hà Lan đã xây dựng những con đê cực lớn và những cổng chắn sóng khổng lồ ngay cửa sông để thuần hóa sông Ranh và Mơ-xơ.
Nhưng việc phòng nước biển dâng đã phát triển dần lớn hơn từ những thất bại trong quá khứ của họ. Năm 1953, nước lên do bão tràn qua hệ thống đê biển phía nam Hà Lan làm gần 2000 người chết. Năm 1995, một trận lụt buộc 200.000 người và hàng triệu động vật phải sơ tán khỏi vùng nguy hiểm. Hầu hết cả nước bị ngập trong những trận mưa dai dẳng nếu các trạm bơm không bơm nước vượt qua đê ra biển Bắc.
Một thập kỷ trước đây, chính quyền Hà Lan bắt đầu nghiên cứu những lựa chọn của họ không chỉ với những vùng đất hạ thấp dần mà còn cả với tình trạng nước biển dâng, những trận bão ngày càng mạnh hơn và lụt lớn hơn. Các kỹ sư xây dựng xem xét nhiều phương án, bao gồm cả kế hoạch bỏ một phần lớn lãnh thổ cho biển. Kế hoạch hiệu quả nhất về mặt chi phí là gia cố những con đê và trạm bơm hiện có với chi phí khoảng từ 19 tới 25 tỷ USD. Giôn đơ Rôn-đơ chuyên gia của Viện Bờ biển và Quản lý biển quốc gia nói: “Đó là số tiền khổng lồ nếu phải tiêu tất cả trong một lúc, nhưng chúng ta có thể trải nó ra từ 50 tới 100 năm. Và đối với chúng tôi đối phó với mực nước biển dâng cũng đơn giản hơn bởi chúng tôi đã có cơ sở hạ tầng hiện tại trị giá tới 2,5 nghìn tỷ USD. Nếu bắt đầu từ bàn tay trắng và xây dựng tất cả cơ sở hạ tầng này, có thể phải nghĩ tới việc dâng đất liền cho biển cả”. Đó là tình huống mà các vùng đất thấp từ Băng-la- đét, các quần đảo Ma-san tới Lou-i-si-a-na và vùng đầm lầy Phlo-ri-đa - có lẽ sẽ phải đối mặt tới đây.
Hà Lan cũng lên kế hoạch dành thêm những vùng bãi cho sông Ranh và sông Mơ-xơ. Họ gọi kế hoạch này là “dành thêm chỗ cho nước”. Những con sông nước dâng tự nhiên tràn ngập cả một vùng rộng mênh mông vào mùa xuân, để lại lớp phù sa màu mỡ. Người Hà Lan muốn canh tác và định cư ở những vùng đất như vậy, cho nên bao bọc sông bằng những con đê nhân tạo. Nhưng khi có trận lụt đặc biệt lớn, sông dâng nước tràn qua đê đổ vào thành phố. Đê càng lớn thì khi lụt lớn tràn vào sẽ gây nên những thảm họa khủng khiếp hơn. J. Som-men, Giám đốc quản lý của Hiệp hội thủy lợi Hà Lan khuyên, nên di dân khỏi những vùng đất ngập như vậy. Chiến lược mới là sẽ dành cho sông thêm những khoảng trống để tràn nước tự nhiên, hơn là cố ép vào trong những kênh đào. Vào năm 2050, 90.000 ha đất sẽ được dùng cho việc tăng độ rộng của bãi sông, chuyển vùng đó thành rừng tự nhiên và đầm lầy. 25.000 ha đồng cỏ khác sẽ được dành riêng làm những ao trữ nước tạm thời lớn khi lũ lụt. Việc sử dụng 75.000 ha đất canh tác cũng sẽ thay đổi để chúng có thể chịu đựng những điều kiện ẩm ướt trong mùa đông và mùa xuân.
Dân cư ở nhiều thành phố và làng mạc nói rằng, họ không thể xây cơ sở hạ tầng mới bởi vùng bao quanh họ sẽ được dành cho sông trong những thập kỷ tới. Một công ty đang thiết kế những cánh đồng, những công viên thương mại và thành phố nổi lớn có thể đặt ở khu vực chứa lũ.