Cái đẹp và quy phạm hóa cái đẹp

NDO - Thế kỷ qua, phê bình văn học trên thế giới đã tiến những bước dài, phát triển đa dạng với nhiều trào lưu lớn ảnh hưởng đến sáng tác và thưởng ngoạn văn chương. Nó đa dạng ở đối tượng phê bình. Còn bản thân phê bình thì đa dạng ở hình thức và góc nhìn, nhằm đánh giá hay/dở, cũng như phát hiện cái đẹp, cái mới của tác phẩm...

Hai chức năng chính của phê bình văn học là phát hiện ra cái đẹp và quy phạm hóa cái đẹp. Nếu chức năng trước liên quan đến sự phụ thuộc vào tác phẩm, nghĩa là phê bình luôn đi sau sáng tác, thì chức năng sau nhấn về việc "lập thuyết", một dạng phê bình khả năng dẫn đạo sáng tác.

Hai chức năng này song hành tồn tại trong sự phát triển của một nền văn học. Cho nên, không thể nói phê bình không phát triển được bởi chưa có sáng tác hay. Phê bình đi trước, sau, và cả song hành với sáng tác văn học. Hoài Thanh với Thi nhân Việt Nam đã có công lớn trong việc phát hiện cái mới, cái đẹp trong Thơ Mới. Nghĩa là phê bình của ông đi sau và song hành với sáng tác. Nhưng sau đó ông đã quy phạm hóa cái đẹp của Thơ Mới mang nặng yếu tố hậu lãng mạn chủ nghĩa với sự bỉểu hiện độc đáo của cái Tôi chủ quan. Ðể qua đó, quy phạm này đã ảnh hưởng không ít đến sáng tác và phê bình giai đoạn sau.

Trong quá khứ, đã có không ít phê bình đi trước, mở đường cho sáng tác. Phong trào siêu thực khởi đầu từ Tuyên ngôn siêu thực ra đời vào năm 1924, ở đó chủ trương thực tại đích thực nằm trong vô thức, và bổn phận tối thượng của nghệ sĩ là biểu hiện chúng ra trong tác phẩm nghệ thuật, đã dẫn đạo sáng tác siêu thực gần mươi năm sau đó. Trước đó, phê bình của A-ri-xtốt (Aristotle), của O-ra-ce (Horace), hay ở phương Ðông với lý thuyết "thi ngôn chí" hay "văn dĩ tải đạo" hoặc mới đây: "văn học phục vụ đời sống", phê bình đã là ánh sáng soi đường cho sáng tác. Chính nó được dùng làm thước đo để thẩm định giá trị tác phẩm.

Loại phê bình này rất gần gũi với lý thuyết và dễ biến thành lý thuyết. Ðó là khuynh hướng nổi trội của các trào lưu phê bình phương Tây trong mấy thập niên qua: phê bình mới của Anh và Mỹ, phê bình hình thức luận của Nga, phê bình hậu cấu trúc, phê bình hậu nữ quyền luận, phê bình hậu thực dân luận, phê bình hậu hiện đại, vân vân...

Ðó là các loại phê bình "đi trước" sáng tác, đi trước cả "thị hiếu chung của xã hội". Cho nên, nói rằng "Các nhà phê bình văn nghệ luôn được coi là những người đại diện cho thị hiếu chung của xã hội", thì chỉ đúng một phần. Kẻ sáng tạo có thể đi trước thị hiếu chung của xã hội, vượt qua tầm mong đợi (horizon of expectations) của người đọc đương thời. Ðó là lý do vì sao rất nhiều sáng tác của tác giả lớn ít khi được người đương thời chấp nhận: Uýt-man (Whitman), Bô-đơ-le (Baudelaire), Rim-bô (Rimbaud), Xtăng-đan (Stendhal), Hồ Xuân Hương... Nhà phê bình thì càng ít được đón nhận, nhất là nhà phê bình khuynh hướng lý thuyết. Nhưng với lý thuyết mới của mình, họ có khả năng "sáng tạo" ra thế hệ sáng tác mới, và qua đó - sáng tạo ra người đọc mới.

Chuẩn "của phê bình văn nghệ" chưa hẳn "là cái chuẩn trong sáng tác văn nghệ". Trong lịch sử văn học, đã có nhiều cuộc vượt bỏ ngoạn mục. Quy phạm hóa cái đẹp của Hoài Thanh chỉ bay bổng trong chân trời lãng mạn, hậu lãng mạn và một phần ở ngưỡng tượng trưng; khi bước qua siêu thực, ông đã dừng lại. Ðó là lý do giải thích vì sao ông lưỡng lự trong thẩm định các sáng tạo tràn bờ của Hàn Mặc Tử. Con người sáng tạo vẫn có thể (và đã nhiều lần) phá chuẩn (quy phạm) do nhà phê bình áp đặt, và ngược lại. Khi một kẻ sáng tạo hay nhà phê bình dừng lại, tức là họ chấp nhận sự ngưng trệ của tiến trình (văn học như là một tiến trình). Và họ bị vượt qua.

Thời đại thay đổi, thơ thay đổi. Thơ thay đổi, cách đọc thơ cũng phải thay đổi. Với nhà phê bình mang nặng chức năng thứ hai thì càng phải thay đổi.

Cộng đồng văn học có nhiều bộ phận: người sáng tác, nhà phê bình và độc giả; ở mỗi bộ phận tồn tại nhiều "loại" khác nhau. Trong tham luận tại Hội nghị lý luận - phê bình của Hội Nhà văn Việt Nam tại Ðồ Sơn, tháng 10-2006, tôi đã thử phân loại nhà thơ làm ba nhóm. Một: nhóm làm vần, để phục vụ đại chúng, hai: nhóm tiếp hiện, viết phục vụ cho một tầng lớp độc giả có chọn lọc hơn; và ba: nhóm sáng tạo, là những kẻ luôn luôn trên đường phiêu lưu khai phá, thay đổi và làm mới. Họ sẵn sàng làm mất lòng độc giả đã từng yêu mến họ, kiếm tìm bộ phận độc giả mới, khác. Bởi họ dám thay đổi cách viết, thay đổi cả mỹ học sáng tạo.

Có thể áp dụng lối chia đó với "nhà" phê bình: Nhà phê bình đại diện cho thị hiếu chung của xã hội, điểm sách và nói lên cái hay cũ cho công chúng; nhà phê bình phát hiện cái mới khác, độc đáo hơn trong sáng tác đương thời; và nhà phê bình lý thuyết mang khả tính khai mở hướng đi mới mang tính mỹ học chưa từng có mặt trong sáng tác. Sự hiện hữu của họ đều có lý do chính đáng. Và, nếu làm tốt chức năng phát hiện và quy phạm hóa cái đẹp thì tất cả đều có ích cho cộng đồng và cho văn học.