<p>VIỆT NAM ỨNG PHÓ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU</p>

Các kịch bản biến đổi khí hậu

Hiện nay, biến đổi khí hậu (BĐKH) không còn là dự báo mà đã và đang xảy ra, trong đó, Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia bị tác động mạnh mẽ nhất do BĐKH, đặc biệt, đồng bằng sông Cửu Long là một trong ba đồng bằng trên thế giới dễ bị tổn thương nhất bởi nước biển dâng. Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) vừa hoàn thành các kịch bản BĐKH, nước biển dâng đối với Việt Nam năm 2011.

Với tư cách là người được tham gia đoàn Việt Nam tại Hội nghị thượng đỉnh Liên hợp quốc về BĐKH (COP17) nhóm họp tại Durban (Nam Phi) vào tháng này, ngay trước ngày khai mạc, PV Nhân Dân hằng tháng có cuộc trao đổi với PGS, TS Trần Thục (ảnh), Viện trưởng Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Môi trường, người chủ trì nhóm nghiên cứu xây dựng kịch bản cả hai phiên bản, năm 2009 và 2011 mong muốn cập nhật thông tin chỉ số khí hậu có xu hướng gia tăng cũng như những điểm khác giữa hai kịch bản BĐKH.

PV: Thưa ông, các hiện tượng về BĐKH đã và đang xảy ra ở Việt Nam và các nước trong khu vực với mức độ ngày càng khốc liệt hơn. Ông có thể cho biết, so với kịch bản năm 2009, những điểm mới nào của kịch bản BĐKH, nước biển dâng năm 2011?

23726.jpg

PGS, TS Trần Thục

PGS, TS Trần Thục: Các kịch bản được chi tiết hóa cho điều kiện khí hậu cụ thể của Việt Nam, thể hiện mức độ thay đổi của các yếu tố khí hậu, tập trung vào các yếu tố chính là nhiệt độ, chế độ mưa và nước biển dâng cho các địa phương và các khu vực ven biển Việt Nam. Ba kịch bản BĐKH, nước biển dâng được xây dựng theo các kịch bản phát thải khí nhà kính bao gồm: kịch bản phát thải thấp (B1), kịch bản phát thải trung bình (B2, A1B), kịch bản phát thải cao (A2, A1FI). Các kịch bản được xây dựng chi tiết cho các địa phương và các khu vực ven biển Việt Nam theo từng thập kỷ của thế kỷ 21.

Theo kịch bản cập nhật, mức tăng nhiệt độ dao động trong phạm vi lớn hơn so với kịch bản năm 2009. Chẳng hạn, theo kịch bản phát thải trung bình, vào cuối thế kỷ 21, mức tăng nhiệt độ trung bình năm có thể tới 3,5 độ C ở các khu vực nhỏ thuộc Bắc Trung Bộ (theo kịch bản năm 2009, mức tăng chung cho vùng khí hậu này là 2,8 độ C vào năm 2100). Tương tự đối với mưa, lượng mưa mùa khô có thể giảm đến 30% vào năm 2100 ở một vài nơi thuộc Nam Bộ, trong khi đó theo phiên bản năm 2009 thì chỉ giảm 18%.

PV: Sau khi công bố kịch bản năm 2009 với hệ thống bản đồ nguy cơ ngập cho thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, nhiều địa phương ven biển khác cũng muốn có được hệ thống bản đồ này. Kịch bản năm 2011 đã bổ sung những gì và khu vực nào được đánh giá là bị ảnh hưởng nhiều nhất của BĐKH, thưa ông?

PGS, TS Trần Thục: So với kịch bản nước biển dâng năm 2009, kịch bản cập nhật đã tính chi tiết hơn cho các khu vực ven biển Việt Nam. Vùng ven biển Việt Nam được chia thành bảy khu vực có sự tương đồng về xu thế mực nước biển dâng. Đó là: Khu vực ven biển Bắc Vịnh Bắc Bộ, từ Móng Cái đến Hòn Dáu; Khu vực ven biển đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ, từ Hòn Dáu đến Đèo Ngang; Khu vực ven biển Nam Vịnh Bắc Bộ, từ Đèo Ngang đến đèo Hải Vân; Khu vực ven biển Bắc của Nam Trung Bộ, từ Đèo Hải Vân đến Mũi Đại Lãnh; Khu vực ven biển Nam của Nam Trung Bộ, từ Mũi Đại Lãnh đến Mũi Kê Gà; Khu vực ven biển Đông Nam Bộ, từ Mũi Kê Gà đến Mũi Cà Mau; Khu vực ven Biển Tây, từ Mũi Cà Mau đến Hà Tiên. Diện tích có nguy cơ ngập cũng được tính toán chi tiết cho các vùng và tỉnh. Đồng bằng sông Cửu Long có nguy cơ bị ảnh hưởng nặng nề nhất do nước biển dâng.

PV: Vậy thì từ kịch bản này, những giải pháp, kế hoạch hành động nào đặt ra để ứng phó cũng như giảm thiểu ảnh hưởng của BĐKH, nước biển dâng?

PGS, TS Trần Thục: Chính phủ xác định ứng phó với BĐKH có ý nghĩa sống còn đối với Việt Nam. Theo đó, những nội dung cơ bản của Dự thảo Chiến lược quốc gia về BĐKH đồng bộ với các chiến lược, chương trình trong từng lĩnh vực cụ thể có liên quan như Chương trình mục tiêu quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, Chiến lược quốc gia phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai đến năm 2020, v.v.

Dự thảo Kế hoạch hành động quốc gia về BĐKH trong giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2020 ưu tiên triển khai thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm trong Chiến lược quốc gia phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai như: chống ngập cho thành phố lớn; bảo đảm an toàn các hồ chứa; củng cố và nâng cấp đê biển từ Quảng Ninh đến Quảng Nam, từ Quảng Ngãi đến Kiên Giang và hệ thống đê sông Hồng - Thái Bình và các sông khu vực Bắc Trung Bộ. Hoàn thành việc xây dựng và triển khai thực hiện Chương trình đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long về quản lý tài nguyên nước và thích ứng với BĐKH.

PV: Thưa ông, việc sử dụng kịch bản BĐKH, nước biển dâng cho Việt Nam trong đánh giá tác động và xây dựng kế hoạch ứng phó với BĐKH cần được xem xét và lựa chọn như thế nào cho phù hợp với từng ngành, lĩnh vực và địa phương?

PGS, TS Trần Thục: Bộ Tài nguyên và Môi trường đang trình Thủ tướng Chính phủ cho phép Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố kết quả cập nhật Kịch bản BĐKH, nước biển dâng cho Việt Nam.

Khi áp dụng kịch bản BĐKH, nước biển dâng cho các địa phương, khuyến nghị thực hiện các bước: Xác định các thông số khí hậu quan trọng đối với ngành và đối tượng nghiên cứu phù hợp với địa phương; Chọn kịch bản BĐKH, nước biển dâng phù hợp cho địa phương từ kịch bản quốc gia; Sử dụng các mô hình thủy văn, thủy lực và các mô hình đánh giá tác động nhằm cung cấp những thông tin đầu vào quan trọng khác như sự thay đổi chế độ dòng chảy, ngập lụt, xâm nhập mặn, nước dâng do bão, biến đổi đường bờ,... phục vụ xây dựng và triển khai kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH. Việc triển khai, xây dựng và thực hiện các giải pháp ứng phó cần phải xác định được mức độ ưu tiên dựa trên nhu cầu thực tiễn và nguồn lực có được trong từng giai đoạn kết hợp với việc chọn kịch bản phù hợp nhất.

Theo kế hoạch, Ban liên Chính phủ về BĐKH sẽ công bố kịch bản BĐKH toàn cầu và khu vực trong Báo cáo đánh giá lần thứ 5 (AR5) vào cuối năm 2014. Do đó Kịch bản BĐKH, nước biển dâng cho Việt Nam theo lộ trình được xác định trong Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH sẽ tiếp tục được cập nhật vào năm 2015.

P.V: Xin cảm ơn ông!

Nếu mực nước biển dâng một mét:

- Sẽ có khoảng 39% diện tích đồng bằng sông Cửu Long, trên 10% diện tích vùng đồng bằng sông Hồng và Quảng Ninh, 3% diện tích thuộc các tỉnh ven biển miền Trung và trên 20% diện tích Thành phố Hồ Chí Minh có nguy cơ bị ngập.

- Gần 35% dân số thuộc các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long, trên 9% dân số vùng đồng bằng sông Hồng, Quảng Ninh, gần 9% dân số các tỉnh ven biển miền Trung và khoảng 7% dân số Thành phố Hồ Chí Minh bị ảnh hưởng trực tiếp.

- Trên 4% hệ thống đường sắt, trên 9% hệ thống quốc lộ và khoảng 12% hệ thống tỉnh lộ của Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng.

Có thể bạn quan tâm