PV: Xin ông cho biết diễn biến về tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh của cả nước trong những năm qua?
TS Dương Quốc Trọng: Kết quả từ các cuộc Tổng điều tra Dân số và Nhà ở từ năm 1979 đến năm 1999, tỷ số giới tính khi sinh (GTKS) của nước ta ở mức bình thường từ 105 đến 107. Từ năm 2001 đến năm 2005, tỷ số này dao động trong khoảng 104 đến 109. Vấn đề mất cân bằng GTKS ở Việt Nam bắt đầu "nóng" lên từ năm 2006. Năm 2006, tỷ số GTKS của Việt Nam là 110 trẻ trai/100 trẻ gái. Năm 2007, con số này là 111; năm 2008 đã tới mức 112; năm 2009 là 110,5 và năm 2010 là 111,2. Tình trạng này rất đáng báo động ở nước ta, cần sự quan tâm của Ðảng, Nhà nước và người dân.
PV: Thưa ông, nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng mất cân bằng giới tính?
TS Dương Quốc Trọng: Theo tôi, có ba nhóm nguyên nhân chính. Ðó là nhóm nguyên nhân cơ bản, nhóm nguyên nhân phụ trợ và nhóm nguyên nhân trực tiếp.
Nhóm nguyên nhân cơ bản, đó là, Việt Nam cũng như một số nước châu Á khác, tư tưởng Nho giáo truyền thống còn nặng nề như có con trai để nối dõi tông đường, con cái mang họ cha, thờ cúng cha mẹ, thừa kế... đã làm cho tâm lý ưa thích con trai trở lên mãnh liệt. Tất cả những điều đó đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi cá nhân, mỗi cặp vợ chồng, gia đình và dòng họ.
Nhóm nguyên nhân phụ trợ. Có thể chia nhỏ thành các nguyên nhân, đó là do áp lực giảm sinh, mỗi cặp vợ chồng chỉ sinh từ một đến hai con, nhưng các cặp vợ chồng lại mong muốn trong số đó phải có con trai, vì vậy họ đã sử dụng các dịch vụ lựa chọn giới tính trước sinh như một cứu cánh để đáp ứng được cả hai mục tiêu đó. Do "tâm lý cộng đồng": Người khác có con trai, mình cũng phải có con trai, tâm lý đó lại bị bạn bè, hàng xóm, đồng nghiệp... kích động. Do nhu cầu phát triển kinh tế gia đình: ở nước ta còn rất nhiều việc đòi hỏi sức lao động cơ bắp của con trai; con trai là trụ cột về kinh tế cho cả gia đình. Do chế độ an sinh xã hội chưa bảo đảm, hiện nay 70% dân số nước ta sống ở nông thôn, hầu hết không có lương hưu khi về già, họ cần sự chăm sóc, phụng dưỡng của con cái mà theo quan niệm của xã hội hiện nay, trách nhiệm đó chủ yếu thuộc về con trai. Do chính sách ưu tiên đối với nữ giới chưa thật thỏa đáng, vị thế của phụ nữ trong xã hội còn nhiều hạn chế so với nam giới. Và cuối cùng là do chưa hiểu được hậu quả xã hội của việc lựa chọn giới tính trước sinh.
Nhóm nguyên nhân trực tiếp: Ðó là sự lạm dụng những tiến bộ khoa học công nghệ để thực hiện lựa chọn giới tính trước sinh như: Áp dụng ngay từ trước lúc có thai (chế độ ăn uống, chọn ngày phóng noãn,...); hoặc khi đã có thai (sử dụng siêu âm, bắt mạch, chọc hút dịch ối,...) để chẩn đoán giới tính, nếu là thai trai thì họ để lại, nếu là thai gái thì bỏ đi...
PV: Việc biết trước giới tính thai nhi qua siêu âm có phải là nguyên nhân chính gây mất cân bằng giới tính khi sinh, thưa ông?
TS Dương Quốc Trọng: Ngày xưa, tư tưởng Nho giáo trọng nam còn nặng nề hơn bây giờ rất nhiều, ông cha ta cũng khát khao có con trai lắm chứ nhưng vì sao không dẫn đến tình trạng mất cân bằng GTKS? Ðó là vì, khi đó chưa biết những tiến bộ của khoa học công nghệ trong việc xác định giới tính thai nhi để rồi lựa chọn GTKS. Như đã phân tích ở nhóm nguyên nhân trực tiếp, việc lựa chọn GTKS được thực hiện ngay từ trước lúc có thai, trong lúc thụ thai hoặc khi đã có thai, và khi đã có thai việc sử dụng siêu âm để chẩn đoán giới tính thai nhi là phổ biến. Tuy nhiên, chúng ta chưa thể kết luận siêu âm là nguyên nhân chính gây nên tình trạng mất cân bằng GTKS ở nước ta.
PV: Ông có thể cho biết những giải pháp, định hướng gì để ngăn chặn tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh ở nước ta?
TS Dương Quốc Trọng: Vừa rồi chúng ta đã phân tích các nhóm nguyên nhân dẫn đến tình trạng mất cân bằng GTKS. Như vậy, để giảm thiểu vấn đề mất cân bằng GTKS, theo tôi, cũng cần có các giải pháp tương ứng với các nhóm nguyên nhân.
Thứ nhất, đối với nhóm nguyên nhân cơ bản: Cần phải tuyên truyền, phổ biến cho người dân thấy rõ những nguyên nhân, hậu quả của tình trạng này để người dân đồng thuận và thay đổi hành vi. Muốn làm được điều này, rất cần sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, các cơ quan báo chí, hệ thống phương tiện thông tin đại chúng, với sự tham gia của những người có uy tín trong cộng đồng.
Thứ hai, đối với nhóm nguyên nhân phụ trợ: Chúng ta cần điều chỉnh mức sinh ở mức hợp lý, phù hợp với mức sinh của từng địa phương. Tiếp đến là chúng ta cần có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội tại địa phương cho phù hợp, bảo đảm an sinh xã hội, có chính sách ưu tiên cho phụ nữ như hỗ trợ các cặp vợ chồng chỉ có con gái để họ yên tâm lúc về già; nâng cao vị thế của phụ nữ trong xã hội.
Thứ ba, đối với nhóm nguyên nhân trực tiếp: Chúng ta cần tăng cường tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về việc nghiêm cấm các hình thức lựa chọn GTKS; tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát các cơ sở y tế nhà nước, tư nhân và ngay cả các ấn phẩm, các website trong việc thực hiện các quy định pháp luật về nghiêm cấm lựa chọn GTKS, thực hiện Pháp lệnh Dân số. Ðồng thời, chúng ta cần nâng cao trách nhiệm và y đức người thầy thuốc.
Từ năm 2008, Tổng cục Dân số - KHHGÐ đã xây dựng mô hình can thiệp mất cân bằng giới tính khi sinh và năm 2011, mô hình đã được triển khai tại 43 tỉnh, thành phố. Tuy nhiên, do kinh phí từ Chương trình mục tiêu quốc gia Dân số-KHHGÐ còn thấp nên các hoạt động chủ yếu của mô hình mới chỉ dừng lại ở mức độ tuyên truyền, vận động. Chúng tôi tin rằng, Quốc hội, Chính phủ cũng rất quan tâm tới vấn đề này và sẽ tiếp tục đầu tư mạnh mẽ cho chương trình.
PV: Trân trọng cảm ơn ông!