Ðã qua mười bốn tiếng đồng hồ nhưng ký ức của trận lũ vừa mới đi qua khiến nó bần thần và ngu dại. Nhiều lúc nó chẳng thể nghĩ nổi được điều gì. Nhưng cũng có khi lại muốn lao ra khỏi lèn đá để túm chặt lấy từng cái đầu của con thủy thần đang hung hăng phi tới mà đâm, mà thọc mà thậm chí bị nó xô đẩy, lấp chìm. Hình ảnh của những ngôi nhà bị gió hất, những đàn bò vỡ cổ ông ổng kêu; rồi những con đường, những mái trường nước ngập, hàng cây chìm trong bão; người dân hùa nhau lên núi; người già chết nghẹt. Trẻ con thét xé trời... cứ vun vút chạy trong mắt. Nó khi ấy nằm chênh vênh trên lèn đá, nghe bước chạy rầm rập và la hét mỗi lúc một to dần, bật dậy, chạy xuống. Nhớn nhác tìm cha. Rồi sững sờ gọi mẹ. Chẳng thể tìm nổi một con đường dẫn lối cho nó về nhà. Mọi thứ đã ngập sâu trong hồ nước. Cơ mà còn em gái? Bố mẹ lên nương từ sớm, dặn nó ở nhà kèm em học tập nhưng nó đã chẳng vâng lời. Ánh mặt nó đỏ lên, đục một mầu y như dòng thác. Nó ngược chạy về cõng em. Giữa chừng, bàn tay ai đó giật lại, kéo nó nhập cùng dòng người lũ lượt chen nhau lên núi.
Người ta không ai còn đủ sức để mà nhớ lại những thước phim kinh hoàng vừa mới trải qua nữa. Có chăng chỉ là trong suy nghĩ và cơn mộng mị lúc xỉu đi rồi. Nó ngồi nhăn nhúm bên những người quần rách áo xệch và cái miệng thì rên. Thỉnh thoảng ai đó húng hắng ho, đập bàn chân xuống đá hoặc xoa xuýt cánh tay lên mặt làm nó lại giật mình. Nó nhìn người đàn ông run rẩy bứt vội bứt vàng vốc cỏ lấp lên người đứa trẻ lên hai đang bị lạnh và huyên thuyên đủ điều.
Cạnh tảng đá hoắt nhọn là những con người hôi hám đang xâu xúm lại chăm sóc cho nhau. Kẻ thút thít, vật lộn. Người sốt ruột, rã rời. Ngao ngán. Mỳ tôm, nước uống rồi cũng chẳng còn nổi một hụm. Mọi người lại lục đục kéo nhau lên núi để bứt cho được những đám lá rau hoặc quả dại về nhai kèm. Ðến giữa trưa của ngày đại hồng thủy thứ hai, những người mặc áo cứu hộ tất tưởi rẽ nước ra phát lương khô và một số nhu yếu phẩm cần thiết cho làng. Trong cái gió hơi se và đói, không khí ở đây u ám như một chiếc hầm. Tối. Bưng bít mùi ảm đạm. Tiếng dặn dò nhau nghe rất xót lòng. Sang ngày thứ ba, nước rút. Người dân từ các lèn đá hộc tốc trở về làng.
Nó cũng thoăn thoắt trở về làng.
Việc đầu tiên nó nghĩ đến là ập vào lòng bố mẹ mà hôn hít vì sự sống sót. Con đường đất đỏ đưa mọi người về làng Chìm sau mưa lũ trở nên nhão nhoét, khó đi. Bà con nhiều xóm phải leo bám qua mấy dải đá mới về được tới nhà. Khung cảnh xác xơ, xám xịt. Ðứng trước phần đất của nhà, nó bật khóc thành lời. Những người hàng xóm quanh đó cũng bật khóc thành lời. Chỉ mới qua ba ngày mưa lũ mà mọi thứ đã bị xóa sạch. Không nhà. Không của cải, hàng hóa. Ngập sâu dưới lớp đất đỏ người ta móc lên được vài bao lúa thối với mấy chiếc bừa rụng răng. Con trâu là đầu cơ nghiệp, giờ nó cũng chẳng biết bị lũ dữ dìm đi đâu nữa. Nó hét gọi từng người thân trong gia đình. Khi ai cũng đã về được đúng vị trí nhà thì nó linh cảm một điều gì đó rất xấu đã xảy ra. Lại chạy lên các lèn đá tìm, nó chỉ thấy những bóng dáng người lạ đang thoi thóp thở hoặc xúm xít lại khênh nhau đặt lên cáng khiêng về. Ðáp thuyền ngược xuống mấy thôn lân cận tìm, nó bắt gặp những công trình dân sinh đổ nát; những cột điện và cả trái cây, hoa màu bị lũ vơ vét sạch. Tợn tay lật một khuôn mặt chết trôi, nó suýt buông thuyền khi nhận ra đó là người bạn làm ăn lâu năm của bố. Trước ngày lũ đến, hai người còn khật khừ chén rượu bàn tính chuyện buôn bán với chăn nuôi. Vậy mà...
Trong túp lều chật hẹp nhìn ra sông, nó loáng thoáng thấy bóng ai như mẹ đang lần rần mò trai, cua ốc. Nó dụi mắt đến cả chục lần. Cấu véo đỏ da đến cả chục lần mà vẫn không sao tin nổi. Bật dậy nhìn căn lều, nó chẳng nhận ra sự quen thuộc nào. Phía xa xa, người phụ nữ mặc áo nâu sồng vẫn véo von hát. Lời hát thật giản dị nhưng ấm lòng, lạ mà quen. Bỏ chiếc chăn dù ra mép chiếu, nó rón rén bước ra bến sông. Gió trời thổi mạnh làm vẩn những mụn mọc trên da khiến nó thâm tái và buốt lạnh. Người phụ nữ bất ngờ lặn ụp. Nó tiến thẳng ra, víu lấy cái thau và nhận thấy những con ốc con trai mập ú đang hé vẩy bò. Mắt nó thẫn thờ nhìn và chờ đợi một điều gì đó từ dòng nước au đục đang chậm chảy. Chợt có tiếng người gọi giật phía sau. Nó ngoảnh lại. Chú Tứ. Người phụ nữ mặc áo nâu sồng khi ấy ngóc đầu lên, tóc tai ướt sũng nhưng vẫn tươi tắn cười nắm chắc lấy những chú trai to và nói vui: ngươi là nguồn sống của cả gia đình ta lúc này đó, biết chưa? Nó mặc kệ cái đầu đang nặng nhức cứ thế nhảy tõm xuống sông ôm ghì lấy mẹ. Mẹ nó mắng bảo lên bờ ngay. Nó chẳng chịu. Nước mắt nó bất ngờ rơi rất nhanh. Lần đầu tiên trong đời nó cảm nhận được thế nào là sự chết chóc và tái sinh. Có lẽ nỗi vui sướng tột cùng khi tìm lại được người thân sau trận lũ quét đã làm cho ai nấy trong túp lều lá đều tươi vui và phấn khởi lạ lùng, mặc dù lúc này nhà chẳng có mà về, cơm gạo chẳng có mà ăn, nước cũng phải múc tạm dưới sông lên uống. Nhưng còn người là còn của, bố mẹ nó nói thế. Em nó cũng hồn nhiên thẽo theo thế. Như vậy là hạnh phúc hơn bất cứ gia đình ai trong cái làng Chìm mùa bão rồi.
Bữa ăn đầu tiên sau lũ không như những ngày bình thường khác. Mọi người gắp rau và trai ốc cho nhau nhưng nước mắt cứ lưng tròng. Thương mình tay trắng là một lẽ. Buồn bã hơn là còn rất nhiều những gia đình khác có người thân bị lũ nuốt, chôn vùi hoặc mất xác ngày đêm vẫn cứ đưa nhau ra khúc sông này nỉ non than khóc. Bố nó vì thế mà hôm nào cũng về thôn để cùng đoàn đi tìm giúp họ. Nó xin mẹ cho đi kiếm cá về làm món thay cơm. Nhìn nó chững chạc và nhịn nhường em mỗi bữa, mẹ nó mừng thương khôn xiết. Nhưng tuổi nó còn nhỏ quá, mẹ nó lau vội những giọt nước mắt mà miệng vẫn lấn chấn cười. Mẹ nó bảo:
- Từ từ để dăm bữa nữa đã con.
Nó ngộ nghĩnh đáp:
- Từ từ thì người ta kiếm hết mất.
Tìm vội tìm vàng cho chiếc túi, mẹ nó còn dúi thêm vào tay một tấm lương khô cứu trợ bảo: vừa đi vừa ăn cho đỡ đói con ạ, mấy hôm nay con toàn phải ăn cá với cua rồi. Nó vâng lời nhận nhưng chờ lúc mẹ ra sông múc nước lại chạy vào lán và nhường lại cho em.
Nó ngồi lặng lẽ như một ông già. Thỉnh thoảng giật được những con cá to lại ngoác miệng cười thích thú. Những người hàng xóm cũ chở đồ ra sông rửa làm nó rất nhớ làng. Giữa trưa. Nó chạy tắt qua cánh đồng vừa mới bị nước cuốn, về làng. Làng nó co ro như một cái giếng và thở ra những mùi gây gây rất khó chịu. Nó thấy người làng nhộn nhịp dựng nhà, sửa mái, phơi phóng lúa gạo hay lau chùi vật dụng mà lòng thèm muốn được quay về. Chẳng hiểu vì sao nhưng nó rất thích quay về.
Nó đem hết thảy số cá vừa câu lên chợ huyện bán cốt là để mua được ít gạo và mấy lọ thuốc đau lưng cho bố. Còn mẹ nó thì thương anh em không có áo ấm mặc lúc trời chuyển mùa cũng lặn lội sang tận mấy xã bên xin.
Thầy giáo nó từng nói: được sống là một hạnh phúc. Nó tung tăng sách xiên cá qua một con đường lầy, định rẽ vào thăm và biếu thầy hai con để thầy luộc chấm muối, còn đâu mang về cho mẹ nhưng ngang đường nó bất chợt gặp một bà lão đang ngồi lọt thỏm, buồn thiu trước hiên nhà. Trên đầu bà là một vành khăn xô trắng. Bà rũ rượi mái tóc và đôi mắt lơ đãng nhìn về phía cuối dòng sông. Thỉnh thoảng có ai đó đi qua véo von gọi nhau, người đàn bà đó lại lặng lẽ để rơi những giọt nước mắt. Nó chẳng quen nhưng cũng chầm chậm bước vào. Nó không hỏi. Không chào. Nhưng nó cũng đoán được đôi ba sự việc. Ðặt cả xiên cá lên chiếc cọc cắm gần nhà, nó nhìn bà bằng cặp mắt buồn thiu và nhỏ nhẹ nói: bà làm lên ăn đi, mọi chuyện rồi sẽ qua thôi ạ...
Từ trên lèn đá nhìn xuống, "nhà" nó như một chiếc ô, đủ để che nắng đậy mưa cho bốn cái đầu. Nằm cách đấy không xa, cái lều của vợ chồng chú Tứ, một người dân của làng Chìm bị lũ cướp mất nhà cũng vểnh lên trông kiêu hãnh. Trong khi bà con đang lo dọn dẹp, ổn định nhà cửa sau lũ thì cả gia đình nó lại hùa lên nương tra hạt đợi nảy mầm.