96 tuổi, nhưng ký ức về nhiệm vụ đặc biệt ấy vẫn hằn sâu trong tâm trí người cựu binh quắc thước. Giọng ông sang sảng, hào hứng và cảm xúc khi kể lại với tôi, về chuyến đi đặc biệt nhất trong cuộc đời.
Cơn đau đầu dữ dội của Đại tướng
… Lúc bấy giờ, khoảng tháng 9-10 năm 1953, Bác Hồ và Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Đông Xuân 1953-1954 mục tiêu chính là đánh vào giải phóng thị xã Lai Châu, cử thiếu tướng Hoàng Văn Thái làm Chỉ huy trưởng chiến dịch. Tháng 11/1953, thiếu tướng Hoàng Văn Thái dẫn cơ quan chỉ huy đi lên đánh Lai Châu. Tôi lúc đó là cán bộ Cục Tác chiến, được cử đi với đoàn. Khi lên đến ngã ba Tuần Giáo thì Chỉ huy sở dừng lại để nắm lại tình hình. Trong thời gian ở đó, chúng tôi phát hiện điều bất thường là tàu bay của Pháp bay suốt ngày, sau đó mới được biết tin là địch ở Lai Châu đã rút về Điện Biên Phủ.
Sở chỉ huy chiến dịch lập tức báo cáo về Trung ương. Lúc đó, Trung ương cũng đã biết tình hình. Trung ương họp, quyết định chuyển hướng tiến công về Điện Biên Phủ. Lúc đó, anh em bộ phận trên này bắt đầu xây dựng kế hoạch đánh vào Điện Biên Phủ. Trong lúc làm kế hoạch, thì địch vẫn cấp tốc điều quân, vũ khí, lương thực... lên Điện Biên Phủ, máy bay địch bay suốt ngày. Ta cũng không nắm chắc được tình hình địch, mà chủ yếu phán đoán rồi lập kế hoạch, vì địch vẫn đang cấp tập củng cố sức mạnh của tập đoàn cứ điểm.
Ở An toàn khu Thái Nguyên, Bác Hồ và Bộ Chính trị họp, quyết định: Mở chiến dịch Điện Biên Phủ, cử Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Chỉ huy trưởng, tướng Hoàng Văn Thái làm Tham mưu trưởng mặt trận. Đồng chí Lê Liêm, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm Trưởng ban Chính trị, đồng chí Đặng Kim Giang, quyền Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp làm Trưởng ban Cung cấp.
Tháng giêng năm 1954 thì đoàn của Đại tướng Võ Nguyên Giáp lên đến đây (hang Thẩm Púa, huyện Tuần Giáo, Điện Biên). Sau khi nghe báo cáo tình hình, Sở chỉ huy quyết định: Sẽ nổ súng vào khoảng tối 25/1/1954. Sau này mới rõ, thực tế thì Đại tướng đã băn khoăn ngay từ đầu về chủ trương đánh nhanh, giải quyết nhanh, nhưng không nói ra. Khi lên đến Nà Tấu thì Đại tướng càng suy nghĩ căng thẳng, đến mức bị đau đầu dữ dội. Ngày đó cũng chẳng có thuốc gì đâu, nên quân y phải đi xin ngải cứu, lấy khăn bọc ngải cứu quấn quanh đầu cho Đại tướng.
Do sự cố bất ngờ, nên giờ nổ súng lại lùi đến chiều tối 26/1.
Qua đến ngày 25, theo lời anh Hoàng Minh Phương - Trưởng phòng phiên dịch tiếng Trung của Bộ Tư lệnh, làm việc trong ban thư ký của bác Giáp, có kể lại: Bác Giáp suy nghĩ rất nhiều, căng thẳng, vật vã cả đêm và ông quyết định ra lệnh 8 giờ sáng triệu tập tất cả lãnh đạo các đại đoàn về họp. Nội dung cuộc họp lịch sử này, dù tôi không được trực tiếp tham dự, nhưng được nghe kể lại khá chi tiết, và cũng được nhắc đến trong nhiều hồi ký của nhiều nhân vật lịch sử.
Sau khi thống nhất việc thay đổi phương án tác chiến, lùi thời điểm tiến công tập đoàn cứ điểm, thì các chỉ huy đại đoàn, cán bộ Sở chỉ huy, trừ một số đồng chí phải cấp tốc xây dựng kế hoạch tác chiến mới, còn đều phải đi xuống các đơn vị để phổ biến thông tin, giải thích cho bộ đội hiểu về chủ trương lùi thời gian nổ súng tiến công địch.
Chuyến đi chỉ có một lần trong đời
Đến trưa 27, anh Hoàng Văn Thái tìm tôi, bảo tôi lên gặp anh Văn nhận nhiệm vụ mới. Tôi đi thẳng lên lán của Đại tướng. Gặp Đại tướng, ông rất vui vẻ nói: Kế hoạch thay đổi thì cậu biết rồi, giờ tôi đã viết một bức thư, Đảng ủy cử cậu mang thư mật này về An toàn khu để báo cáo với Bác Hồ và xin ý kiến của Bác.
Tôi báo cáo bác Giáp xin nhận nhiệm vụ. Bác Giáp dặn: Đây là nhiệm vụ rất quan trọng, tuyệt đối bí mật, bằng mọi cách phải đưa được thư này cho Bác Hồ. Đi đến nơi, về đến chốn. Thư này mà lộ ra thì rất nguy hiểm. Cố gắng đi càng nhanh càng tốt.
Đại tướng lại hỏi: Cậu đi bằng gì? Tôi chưa kịp trả lời, vì cũng chưa kịp nghĩ đến điều đó, thì Đại tướng đã bảo: Cậu lấy chiếc xe Jeep của tôi mà đi thì mới nhanh được, chứ cậu đi bộ thì biết bao nhiêu ngày mới tới nơi, mà việc thì gấp.
Đại tướng hỏi tiếp: Bao giờ cậu lên đường? Tôi báo cáo: 4 giờ chiều thì sương mù mới xuống, giờ đó bộ đội và dân công mới tràn ra đường để hành quân, và ô-tô thì cũng phải 4 giờ mới xuất phát được.
Đại tướng đồng ý, và nhắc lại: Nhớ, đi đến nơi, về đến chốn, đưa được thư đến cho Bác Hồ. Ông lại dặn thêm: Bác Hồ đợt này đang họp, cậu xuống chưa chắc đã được gặp Bác ngay. Nếu chưa được gặp Bác thì xin gặp anh Văn Tiến Dũng, báo cáo với anh Văn Tiến Dũng để anh ấy đưa vào gặp Bác. Nếu Bác chưa tiếp được thì đưa thư đó cho anh Văn Tiến Dũng để anh ấy đưa cho Bác.
4 giờ chiều hôm đó, Đại tướng ra bắt tay tiễn tôi. Qua khỏi đèo Pha Đin thì xe tôi gặp rất nhiều bộ đội, dân công hỏa tuyến, thanh niên xung phong đi nườm nượp. Qua được Sơn La, Nà Sản, về đến phà Âu Lâu, anh lái phà thấy chiếc xe con thì biết đó là xe chỉ huy nên lái phà vào ngay. Phà qua được nửa sông thì nghe kẻng báo động, lúc đó tôi cũng sợ đấy, nhưng không dám nói. Tôi bảo anh lái xe nổ máy sẵn, khi phà vừa chạm đất thì xe vọt lên ngay, chạy được mấy chục thước thì nghe bom nổ phía sau thật, nhưng nổ trên sông, chứ không trúng phà.
Có điều này không hiểu do ai xui khiến, khi nghe kẻng báo động ở phà Âu Lâu, không hiểu tại sao tôi lại nảy ra suy nghĩ: Nếu bom nổ trúng phà, mình bị rơi xuống thì có hai trường hợp, một là mình sống, hai là mình chết. Trong tư tưởng thì xác định rơi xuống là chết, vì tôi bơi kém, sông Hồng thì chảy xiết. Tự nhiên tôi tháo chiếc thắt lưng thắt ngang chiếc xà cột (được trang bị cho cán bộ Cục Tác chiến) đựng lá thư, mang chặt vào người. Tôi nghĩ là, nếu tôi rơi xuống nước thì chiếc xà cột vẫn được đeo chặt vào người mình, không bị rơi đi mất, nếu có ai vớt được xác thì sẽ tìm được chiếc xà cột và tìm được thư.
Xe chúng tôi chạy tiếp qua cầu Bình Ca, qua Đèo Khế rồi về đến Chợ Chu là gần trưa. Để xe lại, tôi đi bộ từ Chợ Chu vào gần chỗ Bác Hồ đang họp là chiều. Vào đến khu vực bảo vệ, tôi đợi nhưng không báo cáo được với Bác Hồ, nên tôi đề nghị xin gặp đồng chí Văn Tiến Dũng. Khi đồng chí Văn Tiến Dũng ra, tôi báo cáo hết tình hình. Đồng chí Văn Tiến Dũng nhận thư, nói với tôi là sẽ báo cáo với Bác Hồ.
Sáng hôm sau tôi lại đến, ngồi đến khoảng 9-10 giờ thì đồng chí Văn Tiến Dũng trực tiếp đi ra. Đồng chí nói: Thư tôi đưa cho Bác Hồ rồi, Bác nói là đã xem rồi. Bác nói: Trong thư anh Văn viết đã rất rõ ràng rồi, cậu phái viên không phải báo cáo nữa. Bác đang bận họp, mà bắt cậu ấy đợi thì mất việc của cậu ấy, nên cho cậu ấy về và bảo cậu ấy là Bác Hồ đã xem, Bác Hồ sẽ trả lời cho anh Văn.
Chiều hôm đó tôi lên xe đi về. Đến ngày 1/2 thì về đến Chỉ huy sở ở Nà Tấu, nhưng tối hôm trước thì toàn bộ Chỉ huy sở đã chuyển vào Mường Phăng. May là khi tôi về thì vẫn còn mấy anh em cấp dưỡng đang ở lại. Họ cho tôi ăn cơm nguội rồi cùng vào Mường Phăng. Vào đến nơi tôi chạy lên báo cáo bác Giáp. Bác nói: Bác Hồ đã nhận được thư và trả lời đồng ý rồi. Cậu đã làm việc rất trách nhiệm, đi nhanh và an toàn. Cậu đã hoàn thành nhiệm vụ. Giờ cậu ngồi nghỉ, kể tôi nghe chuyện đi đường. Tôi nói: Báo cáo anh, nói là chiến tranh, nhưng bộ đội, dân công đi vui như tết trên đường, họ hát, họ hò, vui lắm. Tôi còn nhớ câu hò: Trèo đèo lội suối băng băng, xe thồ đè bẹp xe tăng quân thù... Nghe vậy Đại tướng vui lắm.
Hôm đó là 29 Tết Giáp Ngọ.
Sau này nghĩ lại, tôi mới thấy sợ, nếu mình có mệnh hệ gì thì hết sức là gay go cho nhiệm vụ. Có nhiều người hỏi, lúc đó tôi cảm nhận thế nào? Thật sự là tôi không nghĩ gì cả. Là bộ đội, nhận nhiệm vụ cấp trên giao thì cứ thế mà làm, làm đến nơi đến chốn, không sợ chết, không nghĩ đến bản thân mình. Nhất là mình lại biết đây là thư gửi Bác Hồ, quan trọng lắm, phải thực hiện bằng được.
Tôi rất tự hào vì mình đã được chọn cho một nhiệm vụ hết sức quan trọng, cả đời chỉ có một lần thôi.