"Quyền đối với thành phố"
- Thưa bà, sức hút ngày càng lớn của mô hình phố đi bộ, từ thử nghiệm ban đầu là phố đi bộ Hồ Gươm, cho thấy một thực tế: Nhu cầu về không gian công cộng của người dân Hà Nội đang vượt khỏi các mô hình truyền thống?
- Theo cách hiểu cơ bản nhất, không gian công cộng là nơi con người ta có thể đối mặt với nhau, nhận thức sự tồn tại, hiện diện của nhau. Không gian công cộng ở đô thị lại càng khác với các không gian truyền thống ở nông thôn, bởi đó là nơi gặp gỡ của những người lạ - họ đến từ nhiều địa phương, di cư, nhập cư vì nhiều lý do... Không gian công cộng, vì thế, là nơi những người lạ có thể tương tác với nhau, gặp gỡ, nhận thức được về nhau và từ đó cảm thấy được sự kết nối với đô thị nơi mà họ đang sống.
Trong bối cảnh kinh tế thị trường hiện nay, nhiều không gian công cộng bị thương mại hóa cho mục đích kinh tế, trong khi chức năng sử dụng có tính xã hội và văn hóa của nó lại bị mờ đi. Điều đó có thể khiến cho không gian công cộng mất đi ý nghĩa của nó.
Có một khái niệm có tính lý thuyết về đô thị rất quan trọng để nghĩ về không gian công cộng. Đó là "quyền đối với thành phố". Thành phố không của riêng ai, mà nó là một tuyệt tác tập thể, giống như một bức tranh hay kiệt tác tập thể, mà ai cũng có quyền vẽ lên đó một nét chấm phá, làm cho nó trở nên đẹp và sinh động trong sự đa dạng và hòa hợp. Thành phố là một tài sản chung, và khi người dân có quyền đối với thành phố, họ sẽ có ý thức về trách nhiệm góp phần mình làm cho nó đẹp hơn. Tất nhiên, thẩm quyền của Nhà nước vẫn là phải đứng ra nắm trách nhiệm chính trong việc kiến tạo cơ sở hạ tầng cũng như các quy định, lề luật, nhưng sức sống của không gian công cộng không được tạo ra bởi cơ quan quản lý, mà bởi sự góp phần và sáng tạo của các cá nhân, nhóm và cộng đồng. Có thể nói, cái hồn của một thành phố thường nằm ở không gian công cộng. Ở góc tiếp cận này, không gian công cộng là trái tim làm nên nhịp đập của thành phố.
Phố đi bộ chính là một thí dụ điển hình. Phố đi bộ sẽ chẳng có gì hấp dẫn, nếu không có những nhóm cư dân các lứa tuổi tham gia kiến tạo nên nó bằng sự tham gia, bằng các màn biểu diễn, những biểu đạt văn hóa phong phú, thú vị. Họ đã mang đến ý nghĩa và thổi hồn cho không gian ấy, tạo nên sức sống cho không gian ấy. Đặt vào trường hợp các không gian phố đi bộ khác, có thể lý giải nguyên nhân vì sao các không gian ấy lại thiếu sức thu hút.
Hay lấy một thí dụ khác. Quảng trường Ba Đình vốn được xem là không gian mang tính biểu tượng về quyền lực nhà nước, nên một thời gian dài được quản lý theo một cách thức khá nghiêm ngặt. Nhưng thời gian gần đây, khi quan niệm, góc nhìn đã được từng bước điều chỉnh, người dân bắt đầu được tiếp cận tự do với nhiều hình thức hoạt động, như tập thể dục, tụ tập nhóm... thì quảng trường Ba Đình đã trở thành một không gian có tính cộng đồng hơn, có sức sống hơn, thay vì chủ yếu mang tính biểu tượng.
- Đó là một số thí dụ điển hình về sự thay đổi nhận thức và cách thức quản lý đã giúp hình thành một số không gian công cộng. Nhưng nhìn trên bình diện chung của cả thành phố Hà Nội, thì điều này vẫn chưa phổ biến?
- Đó là thực tế. Không chỉ là việc hình thành một không gian vật chất, mà điều quan trọng hơn là cho phép sự thực hành của các hoạt động mang tính chất sáng tạo văn hóa cộng đồng. Nếu không trở thành nơi chốn kết nối, thì không gian ấy không có ý nghĩa.
Liên quan đến điều này, tôi cũng muốn đề cập câu chuyện Hà Nội muốn xóa hàng rong, cho rằng những người bán hàng rong làm xấu bộ mặt Hà Nội. Trong khi đó, hàng rong lại là nơi tạo nên bản sắc riêng của thành phố Hà Nôi, đặc biệt có sức thu hút về mặt du lịch. Du khách nước ngoài rất thích thú với những thứ mà chúng ta lại đang muốn dẹp bỏ. Hình ảnh những người bán hàng rong mang trên đôi chân mình cả những món quà ẩm thực tuyệt vời của Việt Nam, những sắc mầu hoa theo các mùa, và cả sự kết nối tiếp cận với con người một cách trực diện, cụ thể, đặc biệt lắm chứ. Từ góc nhìn của tôi, Hà Nội nên nhận ra thế mạnh của sự khác biệt để giữ gìn và phát triển nó, thay vì hướng tới phát triển một thành phố hiện đại theo mô hình ngăn nắp, trật tự nhưng vô cảm và buồn chán... Điều làm nên sự hấp dẫn của một đô thị chính là sức sống của đô thị ấy. Tất nhiên, những người làm công tác quy hoạch hay quản lý đô thị có thể họ có cách nhìn khác. Những diễn ngôn về phát triển và hiện đại đã có ảnh hưởng quá lớn trong tư duy quản lý rồi. Phát triển mà mất đi tính cộng đồng, thì thành phố ấy không níu giữ được trái tim của các công dân của nó, cũng như du khách.
Chính vì vậy, tôi cho rằng, việc xây dựng và phát triển đô thị hiện nay cần hướng đến làm sao để giữ được đời sống cộng đồng, tức là một đời sống mà người dân cảm thấy có sự kết nối, tương tác và sáng tạo, cảm thấy thành phố là của mình, chứ không phải thành phố của chính quyền. Khi cảm thấy đó là của mình, thì người ta sẽ yêu nó và có trách nhiệm với nó. Việc kiến tạo các không gian công cộng do đó không chỉ đơn thuần là việc tạo ra một không gian vật chất để họ được tiếp cận, mà còn phải nhận thức được quyền đối với thành phố của các công dân, quyền được thuộc về.
Sự kết nối nên được xem là từ khóa
- Ngoài câu chuyện của các khu phố đi bộ, với hiện trạng của Hà Nội, cách thức nào để kiến tạo các không gian công cộng và sự kết nối cộng đồng, thưa bà?
- Hà Nội đã đầu tư cũng khá đáng kể vào một số công viên, nhưng nhiều khi lại quá xa khu dân cư, nên hạn chế vai trò kết nối. Trong khi, các không gian nhỏ, sân chơi chung, vườn hoa... ở ngay các khu dân cư có ý nghĩa quan trọng hơn trong sự kết nối cộng đồng rất nhiều. Trong bối cảnh quỹ đất ngày càng eo hẹp, cần nhiều hơn các không gian công cộng tận dụng ngay ở chính những không gian mà chúng ta đã có. Thí dụ khi các khu nhà máy đã chuyển khỏi nội đô, người ta đang có ý hướng biến các nơi đó thành các trung tâm thương mại, nên nếu có thể giữ được để biến thành các không gian công cộng hay không gian sáng tạo thì sẽ là điều rất ý nghĩa. Thực tế, không gian công cộng chính là nơi "chữa bệnh" cho đô thị, xoa dịu sự ngột ngạt của các khối bê-tông cao tầng, sự chật chội và lạnh lẽo của các khu dân cư chen chúc, thiếu thốn nơi để giao lưu, kết nối.
Việc Hà Nội tham gia Mạng lưới các thành phố sáng tạo của UNESCO là một động thái rất tích cực. Nỗ lực triển khai các nội dung của chương trình này đang từng bước góp phần lưu giữ nhiều giá trị văn hóa, và đưa được một số hoạt động có tính chất nghệ thuật vào đời sống cộng đồng, tạo ra các không gian mang tính cộng đồng hơn.
Hoàn Kiếm đang trở thành điểm sáng cho các khu vực khác nhìn vào. Tất nhiên, Hoàn Kiếm có nhiều thuận lợi, khi sở hữu nhiều di sản và các không gian vốn đã thuận lợi cho sự kết nối cộng đồng. Nhưng, mỗi khu vực lại có một đặc điểm riêng, với lợi thế và khó khăn riêng, vì vậy, cần có sự quy hoạch tổng thể, với những am hiểu sâu về đặc điểm văn hóa của khu vực và cư dân. Điều quan trọng, như tôi đã nói ở trên, là cần nhận thức về quyền tiếp cận cũng như sáng tạo của cư dân thành phố, chú trọng đến việc tạo ra cảm thức "thuộc về" của người dân, khi đó mới có sự tham gia có ý nghĩa.
Một thành phố phát triển chưa hẳn đồng nghĩa với một thành phố đáng sống. Hiện tại, chúng ta đang chú tâm tới mục tiêu phát triển, mà chưa đủ quan tâm đến mục tiêu đáng sống. Sự kết nối nên được xem là từ khóa đối với mỗi người dân, và phải làm sao để người dân tham gia vào sự hình thành các không gian công cộng. Chính họ sẽ tạo nên sức sống và nuôi giữ các không gian ấy một cách bền vững.
- Xin trân trọng cảm ơn những chia sẻ của bà.