Một cách đọc Káp-ka

Kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, khi châu Âu thấm thía hứng chịu những biến cố chính trị - xã hội khủng khiếp, tác phẩm của Káp-ka (Franz Kafka/1883-1924) đã nhanh chóng trở thành một điển phạm mẫu mực văn chương hiện đại. Đối với nhiều thế hệ trí thức và nhà văn, trong quá trình suy tư - sáng tạo của họ, một trong số ít trường hợp không thể kết thúc với nghĩa là chưa bao giờ thôi cạn kiệt những diễn giải về nó; cũng chưa khi nào mất hết tính chất gợi hứng, hoặc tựa như một chấn động thân - tâm sâu lắng...

Một cách đọc Káp-ka

Từ lâu, một cách ngấm ngầm, "Kiểu Káp-ka" (kafkaesque) là định danh quan trọng và chính xác để phân tích tầm ảnh hưởng của nhà văn đối với các trào lưu hiện sinh, hiện thực huyền ảo, hiện thực phi lý mà thế kỷ 20 có được như là thành tựu văn học thuộc vào hạng lớn nhất (1). Bởi thế, dưới nhiều chiêu thức khác nhau, từ văn bản đến ngoài văn bản, đọc Káp-ka là thách đố thật sự nhưng đồng thời có sức mê hoặc vượt quá mọi hình dung thông thường. Ở Việt Nam, cách đọc Káp-ka vốn bắt đầu tạo thành hiệu ứng từ thập niên 80 của thế kỷ trước và sôi nổi không ngừng ở trong và ngoài giới văn chương cho đến nay. Và giờ đây, nó vừa được bổ sung bởi bản dịch công trình Káp-ka, vì một nền văn học thiểu số của G.Đơ-lớp-dơ (Gilles Deleuze) và F.Gu-át-ta-ri (Félix Guattari) do Nguyễn Thị Từ Huy dịch, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính (Nxb Tri Thức, 2013).

Cách tiếp cận của Đơ-lớp-dơ và Gu-át-ta-ri trước hết xuất phát từ việc nhìn thấy ở Káp-ka một vị thế đặc biệt: nhà văn gốc Do Thái hiếm hoi ở Pra-ha (Cộng hòa Séc), dùng tiếng Đức trong vai trò vừa là chuyển ngữ vừa là ngôn ngữ văn hóa, biết tiếng Hébreu nhưng là thứ tiếng "làm cho người ta sợ". Tất cả đều gợi nên tính chất và đặc điểm của thiểu số, văn học thiểu số. Câu hỏi "văn học thiểu số là gì", có ý nghĩa đặt nền tảng cho các biện luận, đã được hai tác giả tường minh chặt choe, hấp dẫn ở chương ba. Theo đó, "một nền văn học thiểu số không phải là nền văn học sử dụng ngôn ngữ thiểu số, đúng hơn là nền văn học do một thiểu số tạo nên trong một ngôn ngữ dòng chính" (tr.65) với ba đặc điểm cơ bản: sự giải lãnh thổ hóa của ngôn ngữ, sự mắc nối của cá nhân vào chính trị - trực tiếp, kết chuỗi phát ngôn tập thể.

Chính bởi cái tình thế không thể không viết của mình, cho dù phải dùng thứ ngôn ngữ pha lẫn, nên Kápka, trong soi chiếu của hai tác giả, trở thành thí dụ điển hình cho sự thiết lập một "bộ máy biểu đạt", một "thân rễ", một cái hang, mà ở đó, những nỗ lực phá vỡ định chế, uy quyền ẩn nấp trong ngôn ngữ, cộng đồng hay đời sống chính trị được coi là dấu hiệu của cách mạng, chứ không phải là lép vế, nhỏ lẻ. "Chỉ có cái thiểu số là vĩ đại và mang tính cách mạng mà thôi. Căm ghét mọi nền văn học của các ông chủ" (tr.92) là một đánh giá thấu đáo trước việc Káp-ka đã tìm cách kết hợp thứ ngôn ngữ Séc, Do Thái và tiếng Đức ở tình trạng khô kiệt để xác thực chính mình, tạo cho mình một kiểu thức trú ẩn và lên tiếng.

Ở đây, Đơ-lớp-dơ và Gu-át-ta-ri, dưới nhãn quan tinh thần hậu cấu trúc luận, đã lựa chọn các lý loe nhân văn nhất để đả phá những lằn ranh phân chia "nhỏ/lớn", "trung tâm/ngoại vi", "giá trị/phi giá trị" vẫn còn bao quanh mỗi một hiện tượng văn học thuộc bất cứ nền văn hóa nào. Làm sao để trở thành dân du mục và dân nhập cư, dân Di-gan trong chính ngôn ngữ riêng của mình không chỉ là ý tưởng đã thành thực tế của Káp-ka, mà còn là khát vọng lâu dài, mãnh liệt của văn chương thế giới hiện đại.

Để chỉ ra bộ máy biểu đạt, Đơ-lớp-dơ và Gu-át-ta-ri tiến hành khảo sát hệ thống văn bản, tác phẩm của Kápka gồm thư từ, những truyện ngắn và những tiểu thuyết. Nếu những bức thư (Thư gửi Max Brod; Thư gửi Milena; Thư gửi bố (2); Thư gửi Felice), như một mạng lưới, đóng vai trò là bản giao kèo với quỷ, tạo nên những thúc bách, ham muốn kiểu Káp-ka - Đracu- la, thì những truyện ngắn lại chứng tỏ khả năng tìm thấy lối thoát, sự lẩn trốn bằng việc trở-thành-động-vật (trở-thành-bọ, trở-thành-chó, trởthành- khỉ, vốn xuất hiện trong các truyện ngắn nổi tiếng Biến dạng, Những nghiên cứu của một con chó, Nữ ca sĩ dân chuột...). Còn các tiểu thuyết (Vụ án, Lâu đài, Nước Mỹ) lại có sự tăng sinh các chuỗi (chẳng hạn, ở Vụ án, tất cả mọi người đều là viên chức hoặc trợ lý cho tổ chức tư pháp, từ thẩm phán, luật sư, mõ tòa, cảnh sát đến phụ nữ, bé gái, họa sĩ Ti-tô-ren-li... Chuỗi dài này còn chai thành những chuỗi phụ) và điều đó, khi bị chính Káp-ka dừng lại, sẽ tạo nên sự vô tận, vô hạn. Phân tích kỹ lưỡng này chỉ ra rằng, khác với hình dung về một Káp-ka ủ dột, thường lẩn trốn và né tránh cuộc đời trong cô độc - tác giả của cô đơn, tội lỗi và bất hạnh nội tâm - là một Káp-ka cười, vui vẻ, vui sống, "một tác giả chính trị, nhà tiên tri cho thế giới tương lai" (tr.131).

Có thể nói, đây là một phát hiện táo bạo và độc đáo của Đơ-lớp-dơ và Gu-át-ta-ri, để chống lại cách đọc dựa sâu vào phân tâm học, biến lý thuyết Ơ-đíp (Oedipe) trở thành thứ quá phì đại khi phân tích mối quan hệ bất thường giữa Káp-ka và "người cha" (từ đời thường đến văn học). Theo tác giả, ở Káp-ka, vấn đề không phải là làm thế nào để thoát khỏi người cha, mà là làm thế nào để tìm được một con đường ở nơi mà người cha không tìm thấy nó. Bằng cách chỉ ra cơ chế tự tìm lối thoát, ngụy trang và tìm thấy khả năng phóng đại trong những biến thể trở thành-khác trong tác phẩm Káp-ka, Đơ-lớp-dơ và Gu-át-ta-ri cho thấy chúng phức tạp hơn nhiều so với cách áp đặt kiểu Ơ-đíp giản đơn.

Là một văn bản phê bình nhưng chứa đựng hàm lượng triết học rất cao, Káp-ka, vì một nền văn học thiểu số không dừng lại ở việc cung cấp một vài đáp án khả dĩ nắm bắt tức thì. Việc đọc cuốn sách này cũng cần đến những tra cứu thêm các khái niệm đa nghĩa, như "giải lãnh thổ hóa", "trở thành-khác", "nội dung và biểu đạt"... Sức hấp dẫn của "cái khó" trong cuốn sách này, vì loe tất yếu phải tiến tới một tinh thần thông hiểu về nhau, sẽ khiến chúng ta cố gắng tiếp nhận, suy ngẫm.

(1) Phơ-rớt (S.Freud), Brếch (B.Brecht), Káp-ka đều từng bị phátxí t thủ tiêu tác phẩm nhưng cũng như Freudian, Brechtian, kafkaesque là những từ khóa trong nhiều nghiên cứu, tổng thuật văn hóa văn học.

"Thế giới bắt đầu như thế giới của Káp-ka" là cụm từ xuất hiện ngay từ những năm đầu chiến tranh thế giới lần thứ hai. Trường ảnh hưởng của Káp-ka càng lớn khi tác phẩm của ông được dịch ra nhiều ngôn ngữ, và sau khi Hội thảo quốc tế về Káp-ka được tổ chức tại Pra-ha năm 1963.

Trong chuỗi kéo dài những người nghiên cứu và tiếp nhận Káp-ka, có thể kể đến Mác-két (G.Garcia- Marques), Ben-gia-min (W.Benjamin), Na-vô-kốp (V.Nabokov), Kun-đơ-ra (M.Kundera), Blum (H.Bloom), A-đô- rơ-nô (T.Adorno)... Những vòng sóng nghệ thuật lấy cảm hứng từ và về Káp-ka (âm nhạc, điện ảnh, sân khấu, văn học...) vẫn liên tiếp diễn ra suốt nhiều thập kỷ qua.

(2) Có thể đọc văn bản rất quan trọng này bằng tiếng Việt (Phơ-răng Káp-ka, Thư gửi bố; Đinh Bá Anh dịch, Nxb Hội Nhà văn và Phuongnambook, 2013) để có thêm những liên hệ cần thiết khi dõi theo những phân tích của Đơ-lớp-dơ và Gu-át-ta-ri. Một phần các bức thư, nhật ký, truyện ngắn Káp-ka có thể đọc ở Phơ-răng Káp-ka - Tuyển tập tác phẩm, Nxb Hội Nhà văn và Trung tâm văn học nước ngoài Đông Tây, H.2003.

Có thể bạn quan tâm