VĂN HÓA ẨM THỰC

Giò nêy

NDO - Lênh đênh, phiêu dạt khắp các miền quê, thấy quê nào cũng có cá tính. Cứ cất giọng lên là đoán được. Đất và nước đã phân chia thanh sắc để nhân loại đa điệu, hòa âm cho chúng ta nhận biết lẫn nhau...

Tối 30, có một lão Thanh Hóa lui hui nấu món cá khoai trên một cái kiềng ba chân phục vụ đến chín người ăn. Kẻ ở Hải Dương, người Bắc Giang, người quê Hà Tĩnh, đứa ở Quảng Bình, thằng quê Bắc Cạn, gã ở Hà Nam.

Lão Thanh Hóa nhẹ nhàng thả từng con cá khoai vào nồi nước cà chua đã nổi váng hoàng hôn. Cái bọn quê nghèo nhưng tính tình bất khuất cho nên đến con cá là thứ thực phẩm đặt ngang hàng với thịt vẫn lộn về khoai. Có mấy nơi ở Thanh Hóa lại còn gọi cá khoai là cá cháo. Cháo với khoai gì cũng nhắc nhớ những bùi ngùi, hờn tủi của gốc gác cái nghèo.

Nồi cá khoai đã được nhấc ra khỏi cái kiềng đang giần giật lửa của mưa phùn và tê cóng cuối năm. Hành hoa cắt nhỏ, tỏi tươi xé bung, thì là ngắt đoạn cứ thế thả vào thơm phưng phức. Trên cái mờ sương khói mây ẩm thực lại thấy thấp thoáng cả đào phai, hương trầm, cút rượu nút lá, chuối xanh nâng niu ngũ quả, câu đối ngày xuân.

Uống rượu quá chén. Chết đi một giấc. Nhỏm dậy. Chín thằng chín quê, húp soàn soạt món canh cá khoai. Một cuộc thoát xác khỏi ma men nồng nặc bằng cả mồm cả mũi cả mắt. Toát mồ hôi ra! Sướng ơi là sướng! Cá khoai - Cá này đúng là thuốc tiên. Châm tửu đi, tớ đọc thơ cho mà nghe:

Ba mươi, có một cánh đồng.

Bà tôi nằm đấy con sông vẫn chờ.

Ba mươi, con dốc bạc phơ.

Tôi leo lên đấy làm thơ một mình.

Ba mươi sao vẫn người đông

Có ai vắng vẻ trong lòng như tôi...

* * *

Có một lão tên Thinh rụt rè, rút từ bị cói ra một cái bọc tròn tròn. Lão quệt nước mắt...

Cái bài thơ ẩm ương của cái thằng chết tiệt tuổi năm Kỷ Hợi đeo sao Huỳnh Diệu thế mà lung lay được cái thân hình trâu cày của lão. Lên thành phố kiếm sống mà đến 30 vẫn tha hương. Lão Thinh hóa ra người gốc Thái Sơn, Thái Thụy, Thái Bình.

Cái tròn tròn mà lão Thinh thò ra đích thị là cái giò nêy.

Lão lên đây làm nghề rửa xe cho thằng cha Quốc Thắng cùng quê với lão nhưng lại là người thông thái ẩm thực nức tiếng Thái Sơn. Ở trọ trong cái lều rách nát trên mặt đầm sen mà lão cũng thì thụt chế tạo được hai cái giò nêy, một cái góp cỗ cho tối 30 cùng với bạn bè, một cái mang về hối lộ vợ con thì đến ma cũng phải rơi nước mắt.

Bốn giờ sáng ngày 29, thứ hai năm Canh Dần, lão Thinh tất tả chạy vào làng Định Công chờ tiếng éc của lợn sề. Lão đã thám thính trước và được con mẹ Tình mật báo về việc nhà ông Tam mổ lợn. Vừa éc là Thinh ta có mặt. Sáu trăm nghìn là sề được bốn cân ba chỉ bụng lợn. Nóng. Nây nẩy. Giần giật.

Lão Thinh xẻ thịt thành hai miếng. Se sẽ xát lớp muối mỏng, chút nước mắm ngon, hạt tiêu giã nhỏ rắc vào lòng miếng thịt, đoạn cuộn tròn miếng thịt bằng bốn sợi lạt dẻo đã nhúng nước. Lợn giờ đã hóa giò. Bây giờ đến lượt trứng lòng đào bóc vỏ bổ đôi. Thảo quả giã nhỏ trộn húng lìu. Cái thứ trứng gà chỉ trang trí để cho miếng giò nêy cắt ra trông như vầng trăng chiều. Nó cũng làm bùi thêm miếng giò khi pha vị cùng với mỡ.

Bây giờ lão Thinh lại mở miếng thịt ra. Cho trứng gà, thảo quả, húng lìu và dùng lá chuối lót dưới lưng miếng thịt cuộn chặt lại. Lão thít cái bụng lợn đến tưởng chừng không thể nào co bóp được.

Thế mà sùng sục cả đêm với hai cái giò to như hai cái chày đại. Treo nó lên cột lều rơi cả khớp tay. Thơm. Tưởng tượng cái phía trong của lá chuối úa là hiển hiện cái làng loi thoi của vùng trũng Thái Bình. Không hiểu tại sao cái giò này lại tên là nêy trong thiên thu của vô vàn ẩm thực nhể?

Lão Thinh cắt từng khoanh giò. Mỗi khoanh đặt lên một đĩa. Cái thơm của ba chỉ luộc được ép chặt chấm với chút nước mắm ớt chanh, nhai thơm đến tận mang tai. Nào, uống tý đã. Mỗi ông nên ăn một củ hành muối. Đừng ăn kẹp với giò nêy làm mất vị. Phải chờ cái bụng lợn nó trôi vào bụng mình hãy nhón đến món hành thì mới đúng kiểu Thái Bình.

* * *

Trước Tết, hít hà vào Ước Lễ đi chụp ảnh mà chả thấy giò chả đâu. Toàn người già lưng còng. Lại gặp một người mang giò chả từ Hà Nội về ăn Tết ở làng Ước Lễ mới là cái oái oăm. Những làng nghề từ từ bước ra khỏi trí nhớ người đời nghĩ mà tiếc đời, tiếc của.

Cũng như lão Thinh thôi. Phải bỏ nghề giò nêy đi kiếm sống trên thành phố mới đủ no, đủ ấm, mới có xe, có cộ, ti-vi, tủ lạnh được. Ở quê làm giò nêy để phục vụ cho mấy ông Tây đến chụp ảnh du lịch thì có họa là trúng gió. Mình không bỏ đi lên đây thì chắc vợ nó cũng bỏ mình.

Nhưng... vẫn thấy tiêng tiếc, như thương cánh đồng, con gà, con vịt, triền đê sông bãi, lũy tre cây cầu mà nghèo lắm khổ lắm mới phải xa nó thôi...