Mới đây, ngày 24/1/2025, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đã ký Quyết định số 232/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Thành lập và phát triển thị trường carbon tại Việt Nam, với mục tiêu xây dựng khuôn khổ pháp lý, thí điểm sàn giao dịch carbon trong giai đoạn 2025-2028, vận hành chính thức vào năm 2029.
Nỗ lực “vá” rừng, phủ xanh Việt Nam
Việt Nam - quốc gia có hệ sinh thái rừng tương đối đa dạng, phong phú, một thời từng được tả là “rừng vàng, biển bạc”, sở hữu muôn vàn báu vật của thiên nhiên. Thế nhưng, do hoạt động khai thác rừng vượt tầm kiểm soát và sự suy giảm nghiêm trọng của rừng trong khoảng 20 năm qua đã dẫn đến hậu quả là thiên tai bất thường, biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp, khó lường. Hệ quả là sau hàng loạt thảm họa dồn dập do thiên tai, sạt lở đã khiến hơn 13.000 người chết, thiệt hại kinh tế ước hơn 6,4 tỷ USD...
Gần đây, việc phục hồi “lá phổi tự nhiên” được cả nước nỗ lực thực hiện thông qua các dự án trồng rừng, trong đó có đóng góp rất lớn của cộng đồng doanh nghiệp.
Theo thống kê từ Bộ Nông nghiệp và Môi trường, tổng diện tích rừng cả nước được ghi nhận từ năm 1945 là 14,3 triệu ha. Song đến năm 1995, do rừng tự nhiên đã bị lấn chiếm, chuyển đổi mục đích sử dụng và khai thác quá mức nên chỉ còn gần 9,3 triệu ha, trong đó có 8,3 triệu ha rừng tự nhiên và 1 triệu ha rừng trồng.
Sau nhiều nỗ lực trồng rừng và quyết tâm “đóng cửa” rừng tự nhiên, đến năm 2020, cả nước đã có hơn 14,6 triệu ha đất có rừng, diện tích đất có rừng đủ tiêu chuẩn để tính tỷ lệ che phủ toàn quốc là hơn 13,9 triệu ha. Theo thống kê mới của ngành lâm nghiệp, diện tích rừng của Việt Nam hiện có khoảng 14,7 triệu ha, có tỷ lệ che phủ rừng ở mức hơn 42%.
Với những dự án: “góp lá vá rừng”, “trồng rừng phủ xanh đồi trọc”, “trồng rừng ngập mặn”, “vì một Việt Nam xanh và phát triển bền vững”… đang được các tổ chức, doanh nghiệp hỗ trợ triển khai tại nhiều địa phương, chắc chắn diện tích rừng của Việt Nam sẽ được nâng lên.
Ánh sáng từ “bể chứa carbon rừng”
Trong xu thế phát triển xanh, Việt Nam đang chú trọng nhiều hơn về vai trò, giá trị của carbon rừng, nhất là giá trị hấp thụ, lưu giữ carbon.
Theo Văn phòng Chứng chỉ Quản lý rừng bền vững, với tổng diện tích 14,7 triệu ha, rừng Việt Nam đang lưu trữ lượng khí nhà kính tương đương khoảng 2,2 tỷ tấn CO2 (CO2tđ). Hiện lâm nghiệp là ngành duy nhất có phát thải ròng âm, tức là lượng hấp thụ carbon cao hơn lượng phát thải khí nhà kính. Ước tính hằng năm, phát thải từ rừng là khoảng 30 triệu tấn CO2tđ (do mất rừng, chuyển đổi rừng, khai thác gỗ, suy thoái rừng), hấp thụ xấp xỉ âm 70 triệu tấn CO2tđ. Nghĩa là lượng phát thải ròng trung bình năm từ rừng là âm 40 triệu tấn CO2tđ/năm. Theo đó, nước ta có thể bán khoảng 40 triệu tín chỉ carbon mỗi năm. Với đơn giá 5 USD/tín chỉ, ước thu về 200 triệu USD, tương đương gần 5.000 tỷ đồng.
Văn phòng Chứng chỉ Quản lý rừng bền vững chỉ ra rằng, tín chỉ carbon trong lâm nghiệp được tạo ra từ các hoạt động giảm phát thải khí nhà kính và từ hoạt động tăng hấp thụ carbon. Về giảm phát thải, dư địa vẫn còn bởi các địa phương vẫn chịu áp lực về chuyển đổi rừng sang mục đích khác do các động lực phát triển kinh tế-xã hội, để tạo sinh kế cho cộng đồng địa phương. Trong sản xuất lâm nghiệp phát thải khí nhà kính vẫn xảy ra do việc đốt sinh khối và sử dụng phân bón. Về hấp thụ carbon, có thể tạo ra tín chỉ carbon thông qua các hoạt động trồng rừng mới, phục hồi rừng, nâng cao chất lượng rừng tự nhiên, áp dụng các phương thức canh tác nông-lâm kết hợp.
Theo nhận định của nhiều chuyên gia, cơ hội phát triển thị trường tín chỉ carbon rừng, trao đổi tín chỉ carbon của nước ta rất lớn khi mà Việt Nam là một trong số gần 150 quốc gia cam kết đưa mức phát thải ròng bằng “0” (Net Zero) tại Hội nghị thượng đỉnh về biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc năm 2021 (COP26). Hơn thế, ngay sau đó, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt đề án về nhiệm vụ, giải pháp triển khai kết quả COP26; phê duyệt chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu; và đưa ra lộ trình tổng thể nhằm hiện thực hóa các mục tiêu khí hậu đã cam kết…
Cần chia sẻ lợi ích và tăng cường cơ chế phối hợp
Mặc dù, Việt Nam được xác định có tiềm năng thực hiện các biện pháp giảm phát thải, hấp thụ khí nhà kính từ đó tạo tín chỉ carbon, thế nhưng để vận hành thị trường này, Việt Nam cần sự hỗ trợ của quốc tế qua việc đầu tư tài chính, công nghệ và nâng cao chất lượng kiểm kê khí nhà kính, thẩm định giảm phát thải. Bởi thực tế, quá trình triển khai có nhiều thách thức, như: quy định hướng dẫn chưa được ban hành kịp thời, đầy đủ; nguồn nhân lực trong cả khối công và tư đều thiếu và chưa có kinh nghiệm.
Do vậy, để thị trường carbon rừng hoạt động hiệu quả, giới chuyên gia cho rằng, cần có khung pháp lý rõ ràng về đầu tư, quyền carbon, chia sẻ lợi ích; cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương về lâm nghiệp, đất đai.
Theo ông Vũ Tấn Phương, Giám đốc Văn phòng Chứng chỉ Quản lý rừng bền vững, yêu cầu kỹ thuật của các dự án carbon rừng hoàn toàn khác so các dự án phát triển lâm nghiệp thông thường. Do vậy, ngoài việc thiết lập khung chính sách cụ thể, các cơ quan quản lý cần bảo đảm minh bạch, công khai thông tin, dữ liệu phục vụ cho đo đạc, báo cáo và thẩm định, chia sẻ lợi ích, thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn môi trường xã hội. Mặt khác, các cơ quan quản lý cần xây dựng theo quy trình xác định, có hệ thống đo đạc, báo cáo, thẩm định và chứng minh được sự chênh lệch giảm phát thải hay tăng hấp thụ carbon từ các can thiệp của dự án.
Đặc biệt, các dự án tạo tín chỉ carbon trong lĩnh vực lâm nghiệp, sử dụng đất cần lưu ý đến các giá trị lợi ích chung như bảo vệ và phục hồi môi trường, bảo vệ đa dạng sinh học, cải thiện thu nhập cộng đồng. Mỗi địa phương, chủ đầu tư cần lựa chọn các biện pháp phù hợp để tối ưu hóa các giá trị của rừng.
Từ góc độ quốc tế, Đại sứ Liên minh châu Âu tại Việt Nam Julien Guerrier cho rằng, thời gian tới, rừng của Việt Nam sẽ đóng vai trò quan trọng là “bể carbon” và đóng góp vào việc giảm phát thải cho nhiều ngành khác. Đó là lý do Việt Nam cần phải bảo vệ rừng, từ đó tạo ra giá trị bền vững từ rừng, lâm sản.
Với kinh nghiệm 20 năm làm công tác nghiên cứu, bảo tồn thiên nhiên, ông Trịnh Lê Nguyên, Giám đốc Trung tâm Con người và Thiên nhiên cho rằng, nguồn đóng góp từ cá nhân thường không đủ để duy trì, phát triển các dự án trồng rừng, phục hồi hệ sinh thái với quy mô lớn. Do đó, việc hợp tác với các doanh nghiệp là cần thiết và có thể đem lại lợi ích cho cả hai bên. Các doanh nghiệp có thể cung cấp nguồn tài chính lớn, ổn định để hỗ trợ các dự án trồng rừng. Và thông qua các hoạt động đóng góp xanh, họ sẽ được hưởng lợi từ việc giảm phát thải, giảm thiểu rủi ro môi trường, tăng cường chất lượng tài nguyên thiên nhiên, và duy trì một hệ sinh thái bền vững hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh của chính mình. Đây là giải pháp để bảo đảm thị trường tín chỉ carbon rừng Việt Nam phát triển bền vững.
Tín chỉ carbon là gì?
Theo Luật Bảo vệ môi trường 2020, tín chỉ carbon (carbon credit) là chứng nhận về lượng khí carbon dioxide (CO2) hoặc các khí nhà kính khác (CH4, N2O) đã được quy đổi tương đương sang CO2. Đơn vị mua bán trên thị trường tín chỉ carbon là CO2tđ ( CO2 tương đương), trong đó một tín chỉ carbon tương đương với một tấn CO2tđ. Tín chỉ carbon có thể được giao dịch thương mại và đóng vai trò như một loại giấy phép, cho phép chủ sở hữu phát thải một lượng nhất định khí CO2 hoặc các khí nhà kính khác. Đây là công cụ quan trọng trong cơ chế giảm phát thải và phát triển kinh tế xanh.