- Ông nhận định như thế nào về tiềm năng phát triển thị trường mua bán tín chỉ carbon, đặc biệt là tín chỉ carbon rừng của Việt Nam?
- Việt Nam được các chuyên gia, đối tác quốc tế đánh giá là một trong những quốc gia có tiềm năng lớn về giảm phát thải khí nhà kính, tạo tín chỉ carbon rừng. Là một quốc gia đang phát triển, Việt Nam có mức tăng trưởng kinh tế cao, nhiều hoạt động sản xuất, kinh doanh phát thải lượng lớn khí nhà kính, nhưng việc ứng dụng công nghệ cao trong thực tiễn lại chưa nhiều. Do đó, chúng ta còn dư địa để giảm phát thải khí nhà kính, tạo tín chỉ carbon.
Thị trường carbon là một loại thị trường mới, song hiện nay các doanh nghiệp còn chưa làm tốt công tác kiểm kê khí nhà kính. Như vậy, chúng ta thiếu cơ sở xác định hạn ngạch phát thải khí nhà kính - loại hàng hóa của thị trường này”.
TS Tăng Thế Cường, Cục trưởng Biến đổi khí hậu
Tuy nhiên, điều quan trọng là cần làm rõ và hướng đến một số khía cạnh, cụ thể như: Thứ nhất, về kiểm soát nguồn phát thải. Theo Đề án Thành lập và phát triển thị trường carbon tại Việt Nam, có hơn 2.166 doanh nghiệp thuộc diện phải kiểm kê, báo cáo mức độ phát thải khí nhà kính.
Các doanh nghiệp phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính được quy định tại “Danh mục cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính” mới nhất do Thủ tướng Chính phủ ban hành định kỳ hai năm một lần. Tại Quyết định số 13/2024/QĐ-TTg, ngày 13/8/2024, các cơ sở thuộc danh mục phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính là: các nhà máy nhiệt điện, cơ sở sản xuất công nghiệp có tổng lượng tiêu thụ năng lượng hằng năm từ 1.000 tấn dầu tương đương (TOE) trở lên; công ty kinh doanh vận tải hàng hóa có tổng tiêu thụ nhiên liệu hằng năm từ 1.000 TOE trở lên; tòa nhà thương mại có tổng tiêu thụ năng lượng hằng năm từ 1.000 TOE trở lên; cơ sở xử lý chất thải rắn có công suất hoạt động hằng năm từ 65.000 tấn trở lên.
Từ nay đến hết năm 2028, dự kiến các lĩnh vực thuộc phát thải khí nhà kính lớn gồm: nhiệt điện, sản xuất sắt thép, xi-măng sẽ được phân bổ hạn ngạch phát thải khí nhà kính căn cứ tổng hạn ngạch phát thải khí nhà kính được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Các cơ sở được phân bổ hạn ngạch có quyền mua, bán hạn ngạch và tín chỉ carbon để bù vào lượng phát thải khí nhà kính vượt quá hạn ngạch cho phép. Điều này cho thấy dư địa để giảm phát thải khí nhà kính là khá lớn.
Thứ hai, về khả năng hấp thụ carbon từ rừng. Việt Nam có tỷ lệ che phủ rừng khá cao, có điều kiện để phát triển rừng, bảo vệ rừng và làm gia tăng trữ lượng carbon cho “ngân hàng” carbon tự nhiên. Đây được xem là một bước tiến, đưa Việt Nam vượt mức trung bình thế giới về độ che phủ rừng.
Mặt khác, tiềm năng phát triển thị trường mua bán tín chỉ carbon của Việt Nam khá thuận lợi khi việc trao đổi tín chỉ carbon ra thế giới đã được các doanh nghiệp thực hiện từ những năm 2000 khi triển khai các chương trình, dự án theo Cơ chế phát triển sạch (CDM). Hiện Việt Nam đã có hơn 300 chương trình, dự án đăng ký thực hiện theo tiêu chuẩn tín chỉ carbon, với khoảng 150 chương trình, dự án được cấp trên 40 triệu tín chỉ carbon và trao đổi trên thị trường carbon thế giới.
Nhờ đó, Việt Nam đã trở thành một trong bốn nước có dự án CDM nhiều nhất, sau Trung Quốc, Brazil, Ấn Độ; và đứng thứ 9 trên tổng số 80 quốc gia có dự án CDM được cấp tín chỉ carbon, tập trung chủ yếu vào lĩnh vực sản xuất năng lượng tái tạo và tiết kiệm năng lượng. Trong thời gian gần đây, Việt Nam cũng đã có nhiều dự án năng lượng tái tạo theo tiêu chuẩn tín chỉ carbon. Riêng trong lĩnh vực lâm nghiệp, chúng ta đã trao đổi 10,3 triệu tấn carbon kết quả giảm phát thải từ rừng khu vực Bắc Trung Bộ.
Thời gian tới, thị trường carbon được kỳ vọng sẽ đóng góp quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Thị trường này phát triển sẽ tạo cơ chế tài chính cho các tổ chức, doanh nghiệp mua bán tín chỉ carbon, mở ra cơ hội thu hút đầu tư quốc tế vào các dự án xanh, công nghệ xanh cho Việt Nam.
- Bên cạnh cơ hội thu lợi nhuận từ bán tín chỉ carbon, đâu là thách thức Việt Nam cần phải giải quyết, thưa ông?
- Trước hết, chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý, đặc biệt cần cụ thể hóa các quy định về: giao dịch; đấu giá hạn ngạch phát thải khí nhà kính; biện pháp bảo đảm an ninh, an toàn thị trường carbon; trung gian và môi giới giao dịch hạn ngạch phát thải khí nhà kính; phí, lệ phí; xử lý vi phạm... Việt Nam cũng chưa có tiêu chuẩn tín chỉ carbon riêng. Số lượng, chất lượng nguồn nhân lực am hiểu về phát triển dự án tạo tín chỉ carbon, thẩm định dự án tạo tín chỉ carbon cũng đang thiếu.
Thời gian qua, mặc dù việc bán tín chỉ carbon đã mang lại lợi ích bổ sung cho doanh nghiệp khi tạo thêm nguồn thu, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường, song cần xem xét đến các yếu tố như: nhu cầu về tín chỉ carbon trong nước; sự hỗ trợ của quốc tế về đầu tư tài chính, công nghệ để thực hiện các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính… Do đó, việc bán hay giữ tín chỉ carbon cần cân nhắc kỹ lưỡng, bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các bên và cân nhắc chiến lược dài hạn về xu hướng biến động giá tín chỉ carbon trên thế giới. Hiện nay, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng đang rà soát các chương trình, thỏa thuận hợp tác về các cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon, chuyển nhượng kết quả giảm nhẹ phát thải khí nhà kính song phương, đa phương và quốc tế đã ký kết bảo đảm việc thực hiện mục tiêu, cam kết giảm phát thải theo đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) và lợi ích quốc gia.
Triển khai Quyết định số 232/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng đang phối hợp Bộ Tài chính tích cực thực hiện các nhóm nhiệm vụ, giải pháp về: hàng hóa trên thị trường carbon; chủ thể tham gia thị trường carbon; hệ thống đăng ký quốc gia và sàn giao dịch carbon; tổ chức vận hành thị trường carbon; nâng cao nhận thức, tăng cường năng lực.
Các nhiệm vụ chính mà các cơ quan quản lý liên quan đang thực hiện để xây dựng, vận hành sàn giao dịch carbon là xây dựng Nghị định của Chính phủ về sàn giao dịch carbon trong nước; thiết lập, quản lý, vận hành Hệ thống đăng ký quốc gia về hạn ngạch phát thải khí nhà kính, tín chỉ carbon, hệ thống giao dịch, hệ thống lưu ký, thanh toán hạn ngạch phát thải khí nhà kính, tín chỉ carbon.
![]() |
Giữ và bảo vệ rừng tại Khu bảo tồn loài sinh cảnh Vượn cao vít, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Ảnh: Nguyễn Đức Thọ/ Fauna & Flora |
- Trong bối cảnh chưa có “môi trường thông thoáng” để mua bán tín chỉ carbon một cách rộng khắp, theo ông, Việt Nam cần làm gì để hoạt động mua bán tín chỉ carbon rừng hiệu quả?
- Căn cứ Đề án Thành lập và phát triển thị trường carbon tại Việt Nam đã được Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 232/QĐ-TTg, Việt Nam sẽ chủ động thành lập, phát triển thị trường carbon theo mô hình tập trung, bảo đảm nguyên tắc thị trường dưới sự quản lý, giám sát của Nhà nước. Việc này nhằm tăng chuyển đổi xanh, hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, cũng như nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
Để tạo ra tín chỉ carbon và vận hành sàn giao dịch carbon hiệu quả, chúng ta cần khẩn trương hoàn thiện: Nghị định về sàn giao dịch carbon; xây dựng các quy định về tiêu chuẩn tín chỉ carbon, giao dịch, đấu giá hạn ngạch, xử lý vi phạm; tập trung đào tạo nguồn nhân lực am hiểu về phát triển dự án tạo tín chỉ carbon, thẩm định dự án tạo tín chỉ carbon; học hỏi kinh nghiệm các nước đi trước và đẩy mạnh hợp tác hỗ trợ kỹ thuật.
Với nỗ lực của Chính phủ trong việc hoàn thiện cơ sở pháp lý cần thiết, nâng cao năng lực, tăng cường hợp tác quốc tế, tôi tin rằng, Việt Nam sẽ triển khai thí điểm thị trường carbon và vận hành chính thức sàn giao dịch carbon từ năm 2029 như mục tiêu đã đề ra, đóng góp tích cực vào mục tiêu chuyển đổi xanh của đất nước.
- Trân trọng cảm ơn ông!