Trong ký ức dân tộc ta có một vùng sáng luôn trầm hùng mà buốt nhói, kiêu hãnh mà đau thương. Ấy là máu và nước mắt của giống nòi dân Việt kết nên suốt dặm dài lịch sử, từ đấu tranh giải phóng đến dựng xây đất nước. Dường như chiến tranh càng lùi xa bao nhiêu, đất nước càng tiếp cận với thành tựu phát triển bao nhiêu thì cái vùng sáng ấy không chỉ càng hiển hiện thật rõ nét, mà còn trở thành một biểu trưng văn hóa có sức mạnh cứu rỗi.
Qua khói lửa chiến tranh, có biết bao hy sinh để định hình dân tộc hôm nay, hỏi có hy sinh nào bằng hy sinh của Mẹ. Và bởi vậy, đức hy sinh, lòng nhân hậu..., những vẻ đẹp vĩnh hằng kết tinh nên phẩm giá và tâm hồn người Việt Nam đã trở thành một trong những sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn trong suốt hành trình cách mạng nước ta.
Mỗi chiến công mỗi vẻ, mỗi hy sinh mỗi vẻ, sự mất mát còn hằn nếp nhăn trên những gương mặt dạn dày, cái dạn dày của sự điềm tĩnh, bình thản, đủ gợi lại và làm sống dậy không chỉ một sự kiện mà là một giá trị kết tinh cội nguồn truyền thống dân tộc - giá trị của nhân phẩm và lương tri thời đại.
Không phải ngẫu nhiên mà ngay trước, trong và sau thời khắc lịch sử của một Việt Nam thống nhất, nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới đã luôn sát cánh cùng nhân dân Việt Nam bằng niềm trân trọng và cảm phục. Và, như một trong số những đại biểu ưu tú ấy, Rô-mét Chan-đra (Romesh Chandra), trên cương vị Chủ tịch Hội đồng Hòa bình thế giới, đã không giấu giếm niềm thấu hiểu, sự cảm phục con người và đất nước Việt Nam anh hùng, rằng: "Bất cứ nơi nào chiến đấu cho độc lập, tự do, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ ở đâu chiến đấu cho hòa bình và công lý, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Ở bất cứ đâu, nhân dân chiến đấu cho một thế giới mới, chống lại đói nghèo, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao" (21-5-1980 - Báo Nhân Dân).
Niềm thấu hiểu và cảm phục ấy còn vang lên tại nhiều diễn đàn quốc tế, rằng "Việt Nam đồng nghĩa với sự vinh quang, lòng dũng cảm và tinh thần quyết thắng"; rằng "Nhân dân các dân tộc trên thế giới mắc một món nợ với Việt Nam. Sự hy sinh của nhân dân Việt Nam không chỉ vì Việt Nam mà vì cả chúng ta"; rằng "Chúng tôi nhận thấy ở Việt Nam tương lai của loài người"... Tương tự, nhiều học giả và hàng loạt báo chí phương Tây phải cất lời thừa nhận "Xưa và nay chưa có một dân tộc nào nhỏ như vậy mà có trọng lượng lớn như vậy đối với lịch sử", vân vân và vân vân...
Song, cảm phục đến bao nhiêu chăng nữa cũng không thể đi hết được hai chữ hy sinh của nhân dân ta trong ròng rã tháng năm trường kỳ kháng chiến, cũng như thật khó để thấu hết được cái sâu thẳm cội rễ anh hùng của một dân tộc yêu hòa bình và lẽ phải. Có cái gì cao hơn, sâu hơn mà bình dị hơn nơi nụ cười phút đối mặt với hy sinh, giọt lệ phút khải hoàn? Phải đó là vận mệnh đất nước đã trao cho các thế hệ anh hùng của Đất Mẹ sức sống vĩnh cửu của lòng quả cảm!
Và bởi vậy, dù thời gian đã có thể bào mòn những chi tiết mô tả sự kiện, song tinh thần của nó với những nét đặc trưng là nỗi đau thương, lòng uất hận và khí phách kiên cường bất khuất của dân tộc vẫn luôn luôn sống động và âm vang trong lòng mỗi người dân Việt Nam xuyên suốt bao thế hệ. Dù có ai đó muốn quên đi hoặc không muốn nhắc lại, nhưng lịch sử vốn có quy luật riêng của nó. Và hơn thế, khi những ngọn nến, những nén nhang còn âm ỷ cháy trên ngàn vạn nấm mộ và trên ngàn vạn bàn thờ của các gia đình có người thân hy sinh vì độc lập dân tộc, thì chắc chắn rằng mạch chỉ đỏ truyền thống hàng chục năm trường kỳ kháng chiến của quân và dân ta vẫn có độ bền vững và soi thấu. Không ai mong nỗi đau lặp lại. Nhưng giá trị lịch sử thì song hành cùng hiện tại và theo suốt tiến trình kiến tạo tương lai.
Lễ thượng cờ thống nhất non sông bên bờ Hiền Lương - Bến Hải (Quảng Trị). Ảnh: HỒ CẦU
Thoắt đã 40 năm. Cứ mỗi dịp nhìn lại, cả chặng dài hướng tới ngày sum họp ngỡ nằm gọn trong một lời ru, một câu ca dao, nằm gọn trong mấy giờ bay từ Thủ đô trái tim cả nước, dù không ai có thể lãng quên chặng đường ấy dân tộc ta đã phải đánh đổi bằng biết bao cuộc đời tuổi trẻ, của lớp lớp thế hệ theo suốt mạch nguồn lịch sử dân tộc. Vâng, cái mạch nguồn chảy trầm trong lòng đất, chảy lắng trong lòng người như đang tụ về đây cả người đang sống và cả những người đã hy sinh làm nên và nuôi bền nội lực Việt Nam, tiếp sức cho thế hệ trẻ hôm nay và ngày mai, ngày mai nữa lòng tự trọng, ý chí tự giải phóng và không cam chịu - biểu tượng của niềm tự hào Việt Nam, hoài bão Việt Nam.
Một đất nước biết đứng lên từ đau thương mất mát là một đất nước luôn khát vọng hòa bình và công lý. Thành quả có ý nghĩa nền tảng của sự phát triển ấy chính là lời nhắn nhủ sâu sắc nhất từ lịch sử cho mỗi thế hệ người Việt Nam chúng ta về trách nhiệm đối với tiền đồ tương lai đất nước.
Lịch sử là ký ức dân tộc. Ký ức ấy là lửa, sáng và âm vang mãi.