Nhìn lại một năm thiên tai cực đoan

Năm 2025 có thể được xem là năm có tần suất xảy ra thiên tai nhiều nhất từng được ghi nhận từ xưa đến nay, với phạm vi xảy ra trên diện rộng từ miền bắc vào miền trung, gây ra những thiệt hại trầm trọng về kinh tế và nhân mạng.

Người dân Hội An (thành phố Đà Nẵng) nỗ lực vượt qua lũ lịch sử. (Ảnh Tùng Lâm)
Người dân Hội An (thành phố Đà Nẵng) nỗ lực vượt qua lũ lịch sử. (Ảnh Tùng Lâm)

Sự chuyển pha liên tục giữa hiện tượng El Nino sang trạng thái trung tính ngắn rồi hình thái La Nina chỉ trong vòng một năm khiến cho hệ thống khí hậu bị mất ổn định ở khu vực Tây Thái Bình Dương. Từ đó, hình thành nên 21 xoáy thuận nhiệt đới, trong đó có 15 cơn bão và sáu áp thấp nhiệt đới đi vào Biển Đông của Việt Nam, gây ra thiệt hại về kinh tế ước tính hơn 100 nghìn tỷ đồng.

Thiên tai trong năm 2025 được đánh giá là vô cùng cực đoan, dồn dập, xảy ra trên diện rộng và vượt nhiều mốc lịch sử từng được ghi nhận trước đây, đặc biệt là về cấp gió bão và lượng mưa. Hai kỷ lục đáng lo ngại là cấp gió bão mạnh nhất từng ghi nhận trên Biển Đông (bão số 9, ở giai đoạn đỉnh điểm, sức gió gần tâm bão đạt tới cấp 15-16, giật trên cấp 17), và lượng mưa trong vòng 24 giờ (1.739 mm) tại một trạm đo ở Bạch Mã (Huế, ngày 27/10) được ghi nhận lớn thứ hai trên thế giới.

Thiên tai dị thường vượt các giá trị lịch sử

Khởi đầu cho chuỗi thiên tai vượt các giá trị lịch sử trong năm 2025 là sự kiện hoàn lưu bão Wipha (bão số 3) gây ra lũ lớn lịch sử về hồ thủy điện Bản Vẽ, với lưu lượng đạt mức 12.800 m3/s. Đây là trận lũ có độ lớn, với xác suất xảy ra là 0,02% trong một năm khiến hồ Bản Vẽ phải xả lũ lớn gây ra ngập lụt nghiêm trọng ở phía tây Nghệ An.

Tiếp sau đó vào tháng 8/2025, bão Kajiki (bão số 5) quần thảo tám giờ đồng hồ liên tục ở khu vực của Nghệ An-Hà Tĩnh đã làm 621 căn nhà tốc mái.

Cũng tại Hà Tĩnh và Nghệ An, bão Bualoi (bão số 10) đã tạo ra một kỷ lục về thời gian quần thảo trong phạm vi một khu vực trên đất liền lâu nhất. Tổng thời gian bão hoạt động với gió mạnh ở đất liền là 12 giờ đồng hồ khiến nhiều nhà cửa bị sập đổ, đồng thời hoàn lưu mưa gây ngập lụt nghiêm trọng ở các tỉnh phía bắc. Sự dị thường của bão Bualoi còn thể hiện ở việc nó tạo ra 10 lốc xoáy trong phạm vi hoàn lưu bão và vùng rìa bão chỉ trong một ngày, gây thiệt hại lớn về nhà cửa tại thành phố Huế, Hải Phòng, tỉnh Quảng Ninh, Thanh Hóa và Ninh Bình.

Ngay sau bão Bualoi là bão Matmo (bão số 11) với hoàn lưu mưa lớn gây ngập lụt lịch sử ở Thái Nguyên, Lạng Sơn, Bắc Ninh và Hà Nội. Lần đầu tiên mực nước sông Cầu dâng cao kỷ lục tại trạm Gia Bảy (29,90m, vượt báo động 3 2,9m, cao hơn lũ lịch sử 2024) và các trạm khác, gây ngập sâu, sạt lở, cô lập nhiều khu vực, thiệt hại nặng nề tài sản và hoa màu, buộc phải sơ tán dân và gia cố đê khẩn cấp.

Liền sau đợt mưa lũ kỷ lục ở miền bắc là đợt mưa lũ và bão lớn ở miền trung. Đợt mưa lớn tại phía tây thành phố Đà Nẵng (Quảng Nam cũ) liên tục với tổng lượng mưa tích lũy đo được phổ biến từ 1.000 mm - 1.400 mm,
có trạm như Trà Giáp đo được lượng mưa tích lũy là 1.523 mm trong các ngày từ 26/10 đến 31/10. Lượng mưa lớn này khiến tất cả các hồ chứa lớn ở thượng nguồn đều trong tình trạng đầy hồ và các hồ chứa thủy điện mất khả năng cắt lũ cho hạ du. Điều này khiến mực nước sông Vu Gia và Thu Bồn liên tục phá vỡ các đỉnh lũ lịch sử năm 2017 và năm 1963.

Hoặc như ở Huế, lượng mưa trung bình hằng năm là từ 2.700 mm - 3.800 mm tùy vùng. Nhưng trong tháng 10 và 11 năm 2025, chỉ trong 13 ngày tính từ 22/10 đến 3/11, tổng lượng mưa tích lũy ở phía tây của thành phố Huế ở mức phổ biến trên 2.000 mm đến 3.000 mm/đợt. Trong đó cá biệt có trạm đo mưa ở đỉnh Bạch Mã tại Huế đã ghi nhận tổng lượng mưa hơn 6.300 mm trong vòng 13 ngày, bằng lượng mưa thông thường của cả hai năm trời.

Đỉnh điểm của thiên tai cực đoan gây thiệt hại lớn về người và của là giai đoạn mưa lớn gây ngập lụt diện rộng tại Đắk Lắk, Khánh Hòa và Lâm Đồng. Lượng mưa lớn hơn 1.000 mm trong ba ngày từ 18/11-20/11 đã khiến lưu lượng nước về hồ thủy điện Ba Hạ cao đột biến, và thủy điện bắt buộc phải xả lũ kỷ lục 16.100 m3/s gây đợt lụt lịch sử nghiêm trọng tại hạ lưu Phú Yên (cũ). Đây là đợt thiên tai gây ra bởi tổ hợp của các yếu tố bất lợi về khí tượng thủy văn đến cùng một thời điểm - điều cả trăm năm mới xảy ra một lần, như hồ chứa đã đầy, mưa tiếp tục lớn, nước sông đang cao và thủy triều hàn cửa.

Với những yếu tố bất lợi và mưa cực đoan như vậy, không hạ tầng nào đủ sức chống chịu, và lũ lụt là điều tất yếu xảy ra. Chúng ta chỉ có thể vận hành hồ chứa linh hoạt để giảm thiệt hại, chứ không thể “chống lũ” với lượng mưa lớn cực đoan như thế này.

“Giải pháp mềm” nâng cao sức chống chịu thiên tai cực đoan

Hạ tầng của chúng ta hình thành từ những quy hoạch có thể từ cách đây 50 năm, 30 năm hoặc ít nhất cũng 20 năm nay, nhưng thiên tai trong vòng 15 năm gần đây có tính cực đoan hơn và có tần suất dày hơn trước. Khi bắt đầu quy hoạch phát triển hạ tầng, thông tin về kịch bản biến đổi khí hậu lúc đó chưa có, hoặc khó có thể tính được hết độ cực đoan khí hậu mà bây giờ chúng ta đang trải qua. Hơn nữa, việc mất đi diện tích rừng đầu nguồn, hay việc phát triển hạ tầng thiếu tính toán yếu tố rủi ro lũ lụt cũng đã khiến thực tế ngập lụt nghiêm trọng hơn kịch bản.

Chẳng hạn, khi thiết kế hoặc xây dựng quy trình vận hành liên hồ chứa, các yếu tố cực đoan về mưa lớn kéo dài đã không được tính toán đủ. Thực tế xảy ra trong năm 2025 cho thấy: Khi lượng mưa lớn cực đoan vượt cao hơn những tính toán ở thời điểm xây dựng, nhiều hồ chứa chỉ có thể xả liên tục, dẫn đến việc mất chức năng kiểm soát lũ như các hồ chứa ở Quảng Nam (cũ), Đắk Lắk, Lâm Đồng và Khánh Hòa.

Hoặc ở các trung tâm đô thị, đa số hệ thống cống đang được thiết kế với cường suất mưa khoảng 60-80 mm trong vòng hai giờ. Nhưng khi xảy ra mưa cục bộ trên 100 mm trong hai giờ, thì chắc chắn sẽ xảy ra ngập úng. Nếu mưa cường suất cao xảy ra liên tục trong ngày, tất yếu dẫn tới ngập lụt diện rộng.

Về mặt kỹ thuật, chúng ta có thể thiết kế để nâng cấp các công trình phòng chống lũ lụt, theo tần suất 50 năm hoặc 500 năm xuất hiện một lần. Dù vậy, khi xây dựng hệ thống hạ tầng thoát nước, tần suất lũ càng cao thì chi phí bỏ ra càng lớn. Trong bối cảnh hạ tầng chưa đáp ứng đủ khả năng chống chịu thiên tai cực đoan, các “giải pháp mềm” rất cần sớm được triển khai nhằm giảm thiểu thiệt hại. Những “giải pháp mềm” đó bao gồm: kịch bản ứng phó thiên tai cực đoan ở cấp liên vùng, cấp tỉnh/thành phố, cấp xã và cả ở cấp cộng đồng, đồng thời nâng cao chất lượng dự báo và cảnh báo thiên tai để giúp người dân và chính quyền địa phương có đủ thông tin trong quá trình ra quyết định ứng phó.

Hiện trạng năm 2025 cho thấy: Chúng ta bị động trong ứng phó với lũ lụt lịch sử, bao gồm cả cấp chính quyền địa phương và người dân. Nguyên nhân bị động một phần do chủ quan, và phần lớn là do chúng ta không đánh giá trước được rủi ro, cũng như không có kịch bản dự trù tương ứng với mức độ cực đoan của thiên tai. Chính vì vậy, khi thiên tai xảy ra, phương châm “bốn tại chỗ” hầu như ít phát huy được tác dụng, khi mà nhân lực, vật lực, phương án chỉ huy tại chỗ... ở nhiều nơi chưa sẵn sàng đáp ứng.

Ở hầu hết các tỉnh, thành phố, chúng ta có kịch bản sơ tán dân tương ứng với các cấp bão. Tuy nhiên, nhiều tỉnh, thành phố lại không có kịch bản ngập lụt và kịch bản sơ tán dân trong các đợt lụt. Đây là công việc cần được thực hiện hằng năm ở tất cả các cấp, để chúng ta không bị động khi có thiên tai lớn xảy ra.

Về công tác dự báo và cảnh báo thiên tai cực đoan, hiện nay các mô hình dự báo và các hệ thống cảnh báo thiên tai của cả Việt Nam và các nguồn dự báo mở quốc tế đã tốt hơn trước đây. Tuy nhiên, tính bất ổn định của hệ thống khí hậu và thời tiết cực đoan cũng gia tăng, khiến các mô hình dự báo và cảnh báo có thể có các sai số. Ngay cả khi các dự báo và cảnh báo được cải thiện thì vẫn có những tình huống khó lường, đặc biệt là khi thiên tai vượt ngưỡng chịu tải của hạ tầng. Khi đó, người dân cần đánh giá được khu vực của họ có an toàn hay không? Căn nhà của họ có an toàn hay không? Và, tài sản của họ có an toàn hay không? Từ đó, họ có thể tự ra quyết định cho các phương án ứng phó ưu tiên ■

Biến đổi khí hậu làm gia tăng các thiên tai cực đoan. Nguyên nhân gốc rễ vẫn là sự nóng lên của Trái đất, nhiệt độ toàn cầu tăng khiến cho hệ thống khí hậu mất ổn định, bề mặt biển nóng lên tạo cơ hội nuôi dưỡng các áp thấp nhiệt đới và các cơn bão nhiều hơn, tạo nên những rủi ro thiên tai ngày càng lớn hơn về cường độ và với tần suất nhiều hơn.

Có thể bạn quan tâm