Sống, ngay cả khi đã chết

“Tôi muốn mình là người hữu ích, là người mang lại niềm vui cho mọi người chung quanh, thậm chí cả những người chưa thật sự biết tôi là ai. Tôi muốn tiếp tục được sống ngay cả khi tôi đã chết”. Cô bé Anne Frank, người Do Thái, đã viết trong cuốn nhật ký nổi tiếng của mình - “Cuốn nhật ký của bé Anne Frank” - như thế, một năm trước khi qua đời trong trại tập trung của phát-xít.

Hai trang nhật ký vừa tìm thấy được công bố tại hội thảo ở Amsterdam.
Hai trang nhật ký vừa tìm thấy được công bố tại hội thảo ở Amsterdam.

Cuốn nhật ký được viết dưới ngòi bút của một em bé gái 13 tuổi, với cái nhìn trong sáng, thánh thiện về cuộc sống, con người, nỗi sợ hãi chiến tranh cũng như niềm tin vào cuộc sống, đã lập tức chinh phục được độc giả trên toàn thế giới và nhanh chóng được dịch ra trên 50 thứ tiếng.

Sống, ngay cả khi đã chết -0
 

Anne Frank là ai?

Anne Frank sinh ngày 12/6/1929, tại Frankfurt am Main (Ðức), trong một gia đình Do Thái. Ðể tránh thảm họa phát-xít, mùa hè năm 1933, bố cô - Otto Frank bắt đầu chuẩn bị cho cuộc di cư của gia đình. Tháng 12/1933, vợ ông - bà Edith và chị của Anne là Margot đến Amsterdam (Hà Lan) trước, đến tháng 2/1934, Anne và bố mới sang Hà Lan cùng gia đình.

Năm 1940, Hà Lan bị Ðức Quốc xã chiếm đóng, Anna Frank cùng gia đình ẩn náu trong một căn phòng kín, của ngôi nhà 263 phố Princegracht - Amsterdam. Với sự giúp đỡ của một vài người bạn Hà Lan, gia đình Anne Frank sống an toàn cho đến ngày 4/8/1944, khi mật vụ Gestapo phát hiện ra căn phòng bí mật. Anne Frank và gia đình bị đưa đến trại tập trung Westerbork (Hà Lan), rồi đến trại tập trung Auschwitz (Ba Lan), và cuối cùng đưa đến Bergen-Belsen vào tháng 9/1944. Tại đây mẹ của Anne chết vào tháng 1/1945, còn Anne Frank và chị gái Margot chết vào tháng 3/1945, chỉ một vài tuần trước khi trại này được giải phóng.

Cha của Anne Frank, ông Otto Frank được Hồng quân Liên Xô cứu sống ở trại tập trung Auschwitz ngày 27/4/1945. Trở lại Hà Lan, ông Otto Frank được những người quen biết trao lại tập nhật ký do Anne Frank viết lúc 13 tuổi, được tìm thấy trong căn phòng bí mật, sau khi cả gia đình bị bắt.

Cuốn nhật ký được xuất bản lần đầu bằng tiếng Hà Lan năm 1947, sau đó được dịch ra Anh ngữ với tựa đề “The Diary of a young girl”. Một tác phẩm kinh điển về lương tri và khát vọng hòa bình của con người.

Anne Frank thuộc về ai?

Vào sinh nhật lần thứ 13, bé Anne Frank được bố tặng một cuốn sổ nhỏ mầu đỏ. Bé quyết định: “Bằng mọi giá tôi phải viết lại bằng được cuộc đời tôi”. Và thế là cứ mỗi ngày, cô viết một lá thư cho một nhân vật ảo có tên là Ketty vào trong cuốn sổ do cha tặng, giống như cách viết nhật ký, cho đến khi Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ.

Cuốn nhật ký đầy ắp những câu chuyện thường ngày, những suy nghĩ của bé về cha mẹ, chị và những người hàng xóm, và cả những nhận xét rất đúng đắn, nghiêm túc về chủ nghĩa phát-xít Hitler, hay những bất công mà bé và gia đình cũng như cả dân tộc Do Thái phải gánh chịu.

Bé Anne Frank, với cái nhìn cương nghị, hiền dịu, vui vẻ… đã tác động tới tất cả những ai đọc qua cuốn sách. Niềm say mê mà cuốn sách tạo nên khẳng định rằng bé thuộc về tất cả mọi người, rằng bé đã vượt lên trên tất cả sự tàn phá, hủy diệt để trở thành một hình ảnh tượng trưng của đức tin trong thế giới hiện đại - thế giới mà trong đó những ý tưởng đạo đức cá nhân luôn bị ám ảnh bởi sự tàn phá, nhưng luôn luôn đấu tranh cho quyền được sống, được mưu cầu hạnh phúc và hy vọng vào tương lai của con người.

Ngay trang đầu, bé viết: “Tôi mong quyển sách này sẽ là niềm an ủi, sự trợ giúp lớn lao đối với tôi”. Khi ấy, bé không biết sự trợ giúp ấy lớn lao đến đâu, nhưng dường như nhận thức về sức mạnh đó ngày càng lớn lên theo thời gian.

Lý do để Anne Frank bất tử thật dễ hiểu. Em là một cây viết thật đặc biệt. Những trang viết của em là kết quả trực tiếp từ khuynh hướng tả thực đến độ tàn nhẫn, khiến hàng triệu con tim rung động bởi sự trong sáng. Ðó là một bé gái thông minh bẩm sinh. Em tin rằng trong bản thân mình tồn tại hai tâm hồn trái ngược nhau. Tất cả những điều đó biến em thành một con người “hữu ích”, theo cách gọi của em. Em không đơn giản là người sinh ra đã được Chúa ban tặng cho tính hào phóng. Em phải đấu tranh để có được nó theo cách riêng của mình, rất kiên trì, không khoan nhượng, tất cả nhằm thử thách phẩm chất của một ý tưởng: “Dù sự thật có tồi tệ đến đâu thì tôi vẫn tin rằng trong sâu thẳm trái tim mỗi người, cái thiện vẫn luôn luôn tồn tại”. Nhưng đoạn văn sau đó, em lại cho chúng ta thấy: “Ðơn giản là tôi không thể xây dựng những ước mơ trên nền tảng của sự lộn xộn, nghèo khổ và cái chết. Tôi thấy thế giới đang dần biến thành sa mạc hoang tàn. Tôi nghe thấy sấm sét đang đến gần và nó sẽ hủy diệt chúng ta. Tôi có thể cảm nhận được hàng triệu con người đang rên xiết vì đau khổ. Và khi nhìn lên thiên đường, tôi nghĩ rằng mọi việc rồi sẽ ổn, rằng tội ác sẽ chấm dứt và hòa bình, nhịp sống bình lặng sẽ quay trở lại. Tôi luôn luôn ủng hộ cho ý tưởng của mình bởi một lúc nào đó, tôi có đủ năng lực để thực hiện nó”.

Ðây không chỉ là niềm lạc quan trẻ thơ mà đồng thời cũng là tiếng kêu than của nhân loại thế kỷ 20, của những người tị nạn buộc phải lang thang trong công xưởng bỏ hoang của một ai đó; của những con người đang bị mù lòa, kêu gọi đòi trả lại cho họ ánh sáng. Trong một trang viết sau này, em còn tự hỏi: “Luôn luôn hành động theo lương tâm mình là tốt hay không?”.

Hỡi loài người, hãy cảnh giác!

Cùng với mẹ và chị gái, Anne mãi mãi ra đi ở tuổi 15, để lại cho thế giới này một tuyên ngôn bất tử về niềm tin và điều thiện.

Ở Việt Nam, ảnh hưởng của cuốn nhật ký cũng rất lớn. Trong một lá thư gửi cho Anne, nhà báo Thu Thủy viết:

“Anne thân mến!

Cho phép tôi được gọi như vậy, mặc dù hơn nửa thế kỷ trôi qua kể từ cái ngày tháng 7 định mệnh ấy, khi em cùng gia đình bắt đầu cuộc lẩn trốn bàn tay tàn bạo của phát-xít. Trong tôi, em mãi mãi là Anne của ngày hôm đó, một cô bé 13 tuổi, mảnh mai, mái tóc đen nhánh, đôi mắt to tỏa sáng và nụ cười thánh thiện như một thiên thần”. Thu Thủy khẳng định: “Nếu có một tượng đài mang tên “Lương tri nhân loại”, tôi hình dung nó là hình ảnh của em trong những ngày cuối cùng của cuộc đời mình tại trại tập trung Bergen-Belsen, đó là một cô bé gầy gò, tiều tụy, người đứng thẳng với đôi mắt sáng lạ lùng, đó là một cô bé dịu dàng như điều thiện, hồn nhiên như hoa cỏ, nhưng cũng cứng cỏi như chân lý, bên cạnh đó sẽ là lời nhắn nhủ cuối cùng của Julius Fucik: “Hỡi loài người, hãy cảnh giác!”.