Đọc sách

Lấp lánh “Một mảnh trăng rừng”

Mặc dù tuổi đã cao, nhà văn Ma Văn Kháng vẫn miệt mài, cần mẫn, phát huy tài năng và bản lĩnh sáng tạo của mình qua nhiều tác phẩm. Mới đây, ông vừa ra mắt tiểu thuyết Một mảnh trăng rừng (NXB Công an nhân dân, 2015), phản ánh khá chân thực những biến động dữ dội trong cuộc sống của một vùng núi thuần người H’mông.

Lấp lánh “Một mảnh trăng rừng”

1 Những biến động mang tính lịch sử quan trọng có ý nghĩa quyết định tiền đồ tương lai của cả xã hội người H’mông ở Xả Hồ, nhằm đổi thay cuộc sống từ lam lũ, nghèo nàn, lạc hậu chuyển sang quỹ đạo của một cuộc sống mới văn minh hiện đại được Ma Văn Kháng chuyển tải vô cùng chân thực. Điều này không chỉ đem đến cho mảnh đất Xả Hồ thân thương một diện mạo mới mà còn thổi vào đó một linh hồn mới, một sức sống mới.

Để chuyển tải được những tư tưởng ở tầm vóc ấy không thể không nói tới “kỹ thuật” viết tiểu thuyết của Ma Văn Kháng đặc biệt là nghệ thuật tổ chức lời văn. Nổi bật trước hết là biểu tượng “mảnh trăng non” - một biểu tượng nghệ thuật đa nghĩa tuy không tham gia vào cốt truyện và hành động của các nhân vật nhưng đã giãi bày được những suy nghĩ của nhân vật, biểu hiện sâu sắc và tràn đầy cảm xúc. Chẳng hạn như Cở - Phó Chủ tịch xã, một phụ nữ trẻ có chồng đi chiến đấu đã hy sinh ở ngoài mặt trận thì nhìn ngắm trăng non trong tâm trạng ngóng trông và chờ đợi với những rung động rất nhẹ nhàng tinh tế kín đáo đậm chất nữ tính “... Đêm đêm, chị chờ trăng lên (...) Trời quang trăng non lên thật rồi... Trăng non. Mảnh trăng mỏng như một vẩy sáp ong, lặng lẽ dâng lên, rất chậm, rất rụt rè, e lệ như sợ bị mây gió làm tan biến đi. Chưa đủ sức phát sáng, trăng chỉ tỏa ánh sáng vàng mơ bột ngô bay”.

Song với Đỏa - Chủ tịch xã đang đối diện với những gian nan thử thách trong việc triển khai dự án xây dựng khu kinh tế mới đặc sản ở Sâu Chua thì lại ngắm mảnh trăng non trong sự so sánh bất ngờ với những khó khăn chồng chất của những ngày tháng đầu tiên dựng xây cuộc sống mới. Hoặc Chỉnh - Chủ tịch huyện cũng nhìn thấy ở mảnh trăng non những liên tưởng khá thú vị về những bão giông tố lốc trong hành trình mở đường đi tới tương lai qua lời tâm sự thủ thỉ với Cở: “Cở à, mọi việc còn đang ở thời kỳ đầu. Như trăng non ấy thôi. Còn nhiều mây đen phủ mờ, nhiều giông bão che khuất lắm. Vững lòng nhé!”. Rõ ràng đã có một sự gặp gỡ giữa hai vị chủ tịch: Chỉnh và Đỏa. Phải chăng đó là sự gặp gỡ của những tâm hồn đồng điệu, luồng tư tưởng mới mà biểu hiện tập trung nhất là niềm tin vào một cuộc sống tốt đẹp, một niềm tin không hề giản đơn, dễ dãi; đó là niềm tin của những người đã nắm chắc được quy luật của cuộc sống: quy luật của tự nhiên và xã hội. Đó cũng chính là mẫu số chung của những cán bộ lãnh đạo trẻ tuổi ngày hôm nay. Những người không chỉ nhiệt tình mà còn rất năng động, sáng tạo và am hiểu sâu sắc thực tế.

Còn với một người mà trái tim đang thổn thức yêu đương như Lừ thì mảnh trăng non kia lại là một hình ảnh đầy lãng mạn, thi vị: “Trăng non một mảnh vành hình cong như lông mày con gái, nhẹ tênh vừa ló lên nơi rìa núi xanh mơ”.

2 Có thể nói mảnh trăng non hiện lên trong câu chuyện như có linh hồn riêng gắn bó với mỗi cảnh ngộ và tâm trạng, mỗi số phận và cuộc đời của các nhân vật. Bên cạnh đó, nhà văn còn vận dụng khá nhuần nhuyễn các phương thức tu từ chuyển nghĩa như so sánh: “Dưới đất, con rắn bò ra khỏi hang, bơi loằng ngoằng như dải lụa múa trên mặt nước ruộng”. Hoặc: “Gió như quái vật sổ lồng. Gió hồng hộc, gió hú, gió rít, gió giật đùng đùng. Gió như một linh hồn ma quái quẫy động, gào thét”; có khi là biện pháp nhân hóa khá bất ngờ: “Lửa bừng lên thành ngọn tò mò như người, nó nhướng cao cổ, ngó tờ giấy” hoặc ẩn dụ nghệ thuật độc đáo khi tả hương vị của rượu được rót ra từ hũ: “Húi, con quỷ thơm tọt ra khỏi miệng hũ nhảy tâng tâng trên các mâm cỗ, ướp vào da thịt các cụ, nở nụ cười trên môi các cụ ngay tắp lự”. Hẳn phải là một người rất tinh tường trong quan sát đời sống cùng với một trí tưởng tượng rất phong phú mới có thể có những trang miêu tả tài tình như vậy. Có khi chỉ một câu văn ngắn nhưng nhà văn đã làm nổi bật chân dung lão Săng đại thọ một trăm mười tuổi rất cụ thể, sinh động “Chà! Giữa nhà vừa mọc lên một bộ xương gầy xác”. Và cũng chỉ bằng một câu văn ngắn tác giả vẫn có thể tóm được bản chất của lão: “Săng có đủ cả uy vũ của sấm sét, hổ báo, thuồng luồng và thần linh ma quái”. Thậm chí chỉ một từ thôi nhưng nhà văn đã lột tả rất đúng, rất trúng nét tính cách điển hình của nhân vật: “Chăng hung hãn. Ký lươn lẹo”.

Bằng vốn sống phong phú và trái tim nhạy cảm của một nhà văn đã gắn bó nhiều năm với con người và cuộc sống nơi miền sơn lâm hoang dã, bằng tài nghệ miêu tả rất tinh tế, sinh động tác giả còn dẫn dắt người đọc làm một cuộc du hành văn chương rất ngoạn mục từ cánh rừng này đến con suối kia, từ đỉnh núi này đến cánh đồng ruộng bậc thang khác. Mùa xuân náo nhiệt trong từng ngọn cỏ, cành cây; vạn vật đều hân hoan trong sự sinh sôi. Cũng có thể người đọc sẽ miên man giữa khúc nhạc rộn ràng náo nức của mùa hè: “Gió rung những cây đào mùa này đang xù lá, đưa tiếng ve ra rả về đầy ắp không gian”; Hoặc sẽ được cùng tác giả dừng chân ngơi nghỉ lúc ban trưa để say sưa thưởng thức cả một vùng đất thanh sơn thủy tú.

Không chỉ thưởng ngoạn những bức tranh thiên nhiên lãng mạn, thi vị, người đọc sẽ còn được hòa mình vào cả một vùng văn hóa đầy rẫy sắc màu dân tộc H’mông như văn hóa trang phục, những lễ tục cúng bái, phong tục hội hè như hội leo núi mùa xuân, những trò chơi tấu tí, ném pao, ném còn... - hình thức giao tình vừa thú vị vừa độc đáo của trai gái H’mông khi Tết đến xuân về trên bản.

Dường như những trang viết này không thuần túy chỉ là tả cảnh mà còn là “hồn” của tác giả thả vào những bức tranh đó. Như một họa sĩ tài ba, nhà văn đã vẽ ra trước mắt người đọc một bức tranh tuyệt mỹ về khu rừng lúc xuân sang với tất cả những đường nét, hình khối, mầu sắc, âm thanh thậm chí cả hương vị của cảnh vật. Có thể nói đó là những trang văn vừa giàu tính tạo hình vừa đầy chất thơ thể hiện mối tương giao hòa hợp vĩnh cửu giữa con người và thiên nhiên. Hoặc chỉ bằng một vài câu văn ngắn nhưng tác giả vẫn có thể dựng lên trước mắt người đọc bức tranh phong cảnh mang vẻ đẹp sơn thủy hữu tình: “Con suối chảy tung bọt dưới chân làng. Rừng rậm nguyên xanh ngằn ngặt trên đầu làng. Núi phủ phục một mạch hùng vĩ sau lưng làng, trên đó có ngọn cao nhất nước, chạm mây trời trắng xớ”.

3 Có thể nói Ma Văn Kháng đã luận bàn về khá nhiều vấn đề. Từ những cái lớn, cái lâu dài như chủ nghĩa xã hội, như sức mạnh của quan hệ dòng họ đến những cái nhỏ, cái trước mắt như ý nghĩa khai mở, tạo dựng của cái cuốc: “Cuốc! Chưa đủ cày, đủ trâu, thì dùng cuốc (...) cuốc đang khai mở một nền văn hóa mới, nếu có thể nói như vậy. Cây rau, cây đặc sản - thế mạnh của vùng núi này - là đóa hoa của trí tuệ, của con người. Rõ ràng là đất đã vô sinh, vô dưỡng, giờ đang hồi tỉnh trước hết là nhờ ở cái cuốc. Cuốc mở lối đi cho con người”.

Thậm chí cả những chuyện nhỏ hơn nữa như bản chất, tính cách của lão Săng cũng được nhà văn luận bàn khá đầy đủ: “Hay vì lão là người cao tuổi nhất làng này, hồi điều tra dân số lão khai: Một trăm mười tuổi? Mèo già hóa cáo. Hổ già thành tinh. Cây già thành quái vật. Ấy thế (...) cây càng lớn càng tỏa rễ, chẽ cành”.

Chính lão Săng mới là tên đầu sỏ theo Chùa làm phỉ nhưng lão “Vẫn ngoài vòng pháp luật. Lão vẫn tồn tại, hòa trộn ở trong mình cái quyền uy của chức dịch, điều ân uy của bậc già lão cao niên, cái mãnh lực vô hình của vị trí trưởng tộc và thói hung tợn của cá tính riêng”; Những lời thuyết minh luận bàn này đã làm cho câu chuyện có tính khái quát cao, chất suy nghĩ, triết lý đằm sâu. Sức nặng của câu chữ, tình ý của nội dung phần lớn nằm ở những lời thuyết minh luận bàn đó. Không chỉ luận bàn đôi khi Ma Văn Kháng còn kết hợp vừa kể, vừa tả vừa bộc lộ cảm xúc trữ tình: “...Tráng rạp mình, mềm mại, nghiêng cày cho lưỡi cày ăn sát vào bờ. Công việc bây giờ mới như bốc men say (...). Ruộng ở đây mảnh vuông, mảnh dài, mảnh the le như cái lưỡi cày, mảnh thươn thướt như cái lá lúa, mảnh giống hình ông trăng. Mấy trăm năm, ông cha đổ mồ hôi, gỡ xương xẩu, mới chỉ được từng ấy đất bạc đất vàng”. Rõ ràng, đây không chỉ đơn thuần là câu chữ mà còn là thái độ nâng niu, trân trọng, là tình yêu trĩu nặng của nhân vật và của nhà văn đối với nương rẫy ruộng đồng của quê hương, xứ sở.

Chính nghệ thuật tổ chức lời văn biến hóa tài tình, linh hoạt đã làm cho văn phong chính luận và văn phong trữ tình trong câu chuyện hòa quyện vào nhau một cách nhuần nhuyễn thể hiện đậm nét cá tính sáng tạo của một nhà văn đã tạo dựng được “bút hiệu” và đem đến cho người đọc một cuộc du hành văn chương để thưởng thức, khám phá, phát hiện về con người và cuộc sống miền sơn cước giữa điệp trùng non xanh nước biếc của núi rừng Tây Bắc.

Có thể bạn quan tâm