1 Trong Chúa đất, người đọc sẽ được trải qua nhiều cung bậc cảm xúc, vui có buồn có trách giận có... nhưng trên hết là thương, thương tất cả những sinh vật tồn tại ở Đường Thượng. Từ đàn ông đến đàn bà, từ đám cải, bụi hoa anh túc đến con chó con chim, cô độc không thể nào kể xiết. Sùng Chúa Đà hiện lên trong từng trang sách là chúa đất độc ác, tàn bạo. Hắn giết không biết bao nhiêu người bằng đủ mọi hình thức, nhẫn tâm treo người con gái mình thương lên cột đá để quạ rỉa. Nhưng xét cho cùng, chúa Đà là kẻ bất hạnh. Nắm mọi cường quyền trong tay mà cả đời mãi không thể hạnh phúc.
Tôi đồng ý với ý kiến của một nhà phê bình văn học rằng “nhân vật thống lĩnh trong các tác phẩm của Thúy toàn là đàn bà”. Từ những tập truyện ngắn: Sau những mùa trăng, Tiếng đàn môi sau bờ rào đá, Đàn bà đẹp... đến truyện vừa Người đàn bà miền núi... và chạy dài hơi với tiểu thuyết, Đỗ Bích Thúy luôn hát khúc ca về thân phận những người đàn bà “có quyền ước mơ, [...] sẵn sàng chết để đánh đổi cái gọi là hạnh phúc, cho dù nó chỉ đến trong chớp mắt” (tr.7).
Dù tên tiểu thuyết được lẩy ra từ hình tượng nhân vật chính, song hệ thống nhân vật nữ trong Chúa đất mới thật sự làm nên cái hồn của tiểu thuyết, đào sâu, phơi mở tâm lý, số phận, bản chất người. Đó là bà Cả, người vợ đầu, thương, yêu và hiểu Sùng Chúa Đà nhất. 30 năm sống cùng nhau nhưng chưa một lần trải qua cảm giác được làm vợ, làm mẹ; chưa một lúc nào giữ được người đàn ông ấy trong tay; chấp nhận làm thân gác cửa kho bạc... Là một Vàng Chở - bông anh túc rực rỡ nhất nhì thung lũng Đường Thượng, bất chấp và quyết liệt. Chở - bà Tư là đứa duy nhất dám nghênh ngang đi qua mặt chúa đất, dám phản bội, ăn nằm với một kẻ chăn ngựa để “đời có những lúc vui đến phát khóc”... Là Sùng Pà Xính xinh đẹp, tiếng hát như tiếng họa mi, khi vui vẻ hạnh phúc với mối tình thật đẹp lúc sợ hãi, đau đớn đầy cam chịu... Là cái Say, đứa nấu bếp béo tròn, tưởng sẽ an phận chết già ở dinh thự Sùng Chúa Đà nhưng không, trái tim vẫn luôn khao khát yêu thương. Là bà Dình yêu chồng thương con... Một câu tự vấn được lặp đi lặp lại trong tiểu thuyết là “sống mà như chết thì sống làm gì”, cho thấy tất cả nhân vật đều ở trong tư thế bị giằng xé giữa chấp nhận và vượt thoát. Và như thế, ở các điểm nhìn khác nhau, đàn bà Mông với tất cả những mong manh và trắc trở, âu lo và gánh nặng, yêu thương lẫn khát vọng cứ lấp lánh trong từng trang văn của Đỗ Bích Thúy, phản ánh nhiều vấn đề ở đáy sâu thuộc tính người.
2 Tôi đã từng hỏi Đỗ Bích Thúy tại sao chị mãi viết về những phận người đàn bà núi cao đầy buồn phiền, đau khổ. Chị bảo không. Nhân vật của chị có những người trẻ trung, đầy sức sống, đầy khao khát yêu đương chứ? Có những người tìm thấy hạnh phúc chứ? Hạnh phúc của Vàng Chở là có được người làm mình thấy ấm áp, để biết đời người phụ nữ sướng nhất lúc nào, khổ nhất lúc nào. Không phải cứ khóc là buồn khổ, sầu muộn. Đàn bà, vui quá cũng khóc – Thúy bảo vậy! Tình yêu trong văn Thúy cũng có nhiều cung bậc. Mà vốn dĩ tình yêu là thế, đa đoan hờn giận, mãnh liệt mê đắm. Nhưng chính trong/từ tình yêu, Thúy mới để nhân vật bộc lộ hết cái chung riêng của một kiếp người.
Tình yêu của Sùng Pà Xính và Thào Chá Vàng là tình yêu được ghép từ thuở nằm nôi, lớn lên thương yêu nhau thật sự. Trải qua biến cố, tình yêu của Xính và Vàng không chỉ là hiện thân của tình yêu đôi lứa mà còn là tình yêu gia đình. Trong bất trắc khó khăn, sự sống của bố mẹ mới là điều quý giá. Pó và Say là biểu tượng của tình yêu ngây thơ, trong trắng, không vụ lợi. Họ xuất hiện không nhiều nhưng chàng trai bụng dại và cô gái thơm mùi mỡ bếp lại gieo bao tiếc nuối, day dứt trong lòng độc giả. Liệu trước cái chết của Pó, Say sẽ khóc cho đến bao giờ...?
Trường hợp tình yêu của bà Cả và Sùng Chúa Đà là tình yêu của sự tôn trọng để đi cùng nhau một quãng đường dài. Đàn bà khi thương và yêu người đàn ông của mình thì sẵn sàng dâng hiến tuổi xuân, lòng tin nên đến phút cuối, bà Cả lựa chọn cái chết để bảo vệ tình yêu của mình là điều dễ hiểu. Trong mắt muôn người, bà là kẻ đủ đầy, có uy quyền ở dinh thự chúa đất. Nhưng ai hiểu được những cô đơn tủi hổ hàng đêm dài chờ đợi, những khao khát cựa mầm không tách chồi cho tới lúc gần đất xa trời với một trái tim như hóa đá?
Trong những trang viết của Đỗ Bích Thúy, từ trước đến nay, mẫu số chung của nhân vật nữ là sự lặng thầm gắng gỏi và nổi loạn ngầm trong vô vàn chịu đựng hy sinh. Biết sao được khi chị cũng là đàn bà. Là người phụ nữ ít nhiều đi qua những sóng gió, bình yên trong đời sống nhiều thăng trầm được mất!
3 Bên cạnh đó, hệ thống nhân vật phụ cũng được tác giả xây dựng với nhiều gợi mở giàu tính nhân văn. Một con chó luôn bên cạnh bà Cả, biết ngửa cổ tru lên thảm thiết trước cái chết của chủ mình. Một Sùng Cắt chịu từ bỏ kiếp sống hoang dã, chọn cái chết trong đống lửa hoang tàn để chúa đất mãi không cô đơn. Tất cả sinh vật ở Đường Thượng, sau cùng đều chết. Có kẻ phải chết, bị ép buộc chết nhưng có người tự nguyện lựa chọn như thể cái chết là thứ duy nhất bản thân họ được sở hữu. Đi đến tận cùng cái chết của nhân vật, người đọc có thể sẽ được an ủi, bởi ít nhất, bà Cả, Sùng Chúa Đà đã không phải cô đơn. Và cái chết không phải bi ai mà là sự giải thoát.
Người ta hoài nghi liệu Thúy lại viết về đàn bà, về núi rừng Hà Giang, bạn đọc có chán không? Tôi không rõ. Chỉ biết những gì được viết ra từ nỗi niềm đau đáu thì luôn xứng đáng được trân trọng và đón nhận. Có nhà văn cho rằng, với Chúa đất, Đỗ Bích Thúy đã ghim vào lịch sử văn học đương đại một vòng khảm bạc motip rất Mông, sáng lấp lánh và khó lẫn.
Từ trước đến nay, trong những trang viết của Đỗ Bích Thúy, mẫu số chung của nhân vật nữ là sự lặng thầm gắng gỏi và nổi loạn ngầm trong vô vàn chịu đựng hy sinh.