65 năm đã trôi qua kể từ thời khắc tướng Ðờ Cát (Ðờ Ca-xtơ-ri) cùng bộ tham mưu của y kéo cờ trắng ra hàng (chiều 7-5-1954), Chiến thắng Ðiện Biên Phủ vẫn là một đề tài hấp dẫn với các văn nghệ sĩ nói chung và báo chí nói riêng; trong đó, chuyện "kéo pháo vào, kéo pháo ra" với gương hy sinh anh dũng của Anh hùng Tô Vĩnh Diện, dường như lúc nào cũng mới.
Theo các tài liệu lịch sử, ngày 13-1-1954, tại hội nghị bàn kế hoạch tiến công tập đoàn cứ điểm Ðiện Biên Phủ, Bộ chỉ huy chiến dịch nhất trí phương châm "đánh nhanh, thắng nhanh". Ðể giữ bí mật, Bộ chỉ huy quyết định dùng sức người kéo pháo vào trận địa. Bắt đầu từ Nà Nhạn, con đường vượt núi An Tao, vòng lên phía bắc và vươn tới bản Nghịu ở phía tây, có ngọn núi cao đến 1.150 mét so mực nước biển. Do tính chất khẩn trương của tình hình chiến trường, con đường kéo pháo với chiều dài 15 ki-lô-mét được hoàn thành chỉ trong... một ngày (15-1-1954) bằng cuốc, xẻng, xà-beng... bởi các cán bộ, chiến sĩ Ðại đoàn 308 và Trung đoàn công binh 151 (Bộ Quốc phòng). Ðể máy bay địch không phát hiện ra, đường mở tới đâu ngụy trang tới đó, nhiều đoạn các chiến sĩ phải đánh cây ở chỗ khác đem về trồng ven đường. Có đoạn phải dùng cành tre dựng thành giàn, trên phủ lá xanh hoặc buộc cành cây lại với nhau thành "con đường ống", khiến máy bay địch không thể phát hiện được.
Ðể kịp cho ngày "N": (25-1-1954) khai hỏa, cán bộ, chiến sĩ Ðại đoàn 312 và Trung đoàn sơn pháo được giao trong thời gian bảy ngày phải kéo pháo vào chiếm lĩnh trận địa. Trọng lượng mỗi khẩu trên hai tấn, lúc đầu lực lượng kéo chủ yếu là các pháo thủ, khi lên dốc phải thêm 10 rồi 20 người, có con dốc phải tăng cường gần ba tiểu đội cho mỗi khẩu pháo. Ðến ngày thứ ba, thứ tư... một số vị trí công binh phải mở rộng thêm mặt đường và hạ bớt độ dốc. Hậu cần mặt trận cũng tăng thêm định lượng từ 8 lạng lên 1 ki-lô-gam gạo cho một chiến sĩ. Qua chín ngày đêm, rạng sáng 25-1-1954, toàn bộ 24 khẩu pháo đã được đưa vào trận địa một cách an toàn và bảo đảm tuyệt đối các yếu tố bí mật.
Tuy nhiên lúc này, qua công tác trinh sát, ta phát hiện Pháp cũng đã hoàn thành việc tăng cường quân số và vũ khí, phương tiện cho Ðiện Biên Phủ, nhằm biến Ðiện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm "bất khả xâm phạm" với những đơn vị đồn trú tinh nhuệ, khí tài mạnh và hệ thống hầm hào kiên cố. Sau khi nghiên cứu, phân tích, so sánh lực lượng hai bên, Ðại tướng Võ Nguyên Giáp quyết định thay đổi phương châm từ "Ðánh nhanh, thắng nhanh" sang "Ðánh chắc, tiến chắc". Với chủ trương đó, một mệnh lệnh của Bộ chỉ huy chiến dịch ban hành: "... Tất cả lực lượng pháo binh kéo trở lại vị trí tập kết chiến dịch cũ trên đường 41, ngay trong đêm nay, 26-1-1954". Với cán bộ, chiến sĩ lực lượng pháo binh, mệnh lệnh đó đã gây không ít xáo trộn về tâm lý khi đã phải đổ biết bao mồ hôi, công sức mới đưa được pháo vào trận địa, giờ lại phải kéo pháo ra... Nắm bắt tư tưởng chiến sĩ, các chi bộ kịp thời họp để quán triệt việc kéo pháo ra và chập tối 26-1-1954, cuộc vật lộn với đèo cao, vực thẳm, dốc trơn... được lặp lại, chỉ có điều lần này mũi pháo... quay về hậu cứ. Lượt kéo pháo vào trận địa đã rất gian khổ, nhưng không gian khổ bằng lượt kéo pháo ra. Dường như không quân Pháp đã phát hiện thấy hoạt động của ta, nên chúng liên tục cho máy bay trinh sát và sau đó là phản lực oanh tạc.
Ðêm 1-2-1954 là đêm thứ bảy các chiến sĩ thực hiện mệnh lệnh kéo pháo trở ra. Ðỉnh Pha Sông cao hơn 1.100 mét là một trong những đỉnh cao nhất của dãy Pú Pha Sông lừng lững mà bộ đội phải kéo pháo qua, trên đoạn đường từ ngã ba Nà Nhạn vòng qua bản Tấu (bản Tố) tới cánh đồng Na Hí. Anh em gọi vui đây là "Dốc ông Mậu" (đồng chí Phạm Ngọc Mậu, Chính ủy Ðại đoàn công pháo 351). Hồi chiến dịch, một bộ phận nhỏ của Ðại đoàn 351 và Ðại đoàn 312 đóng quân chung trong một thời gian ngắn để hiệp đồng kéo pháo theo kế hoạch "đánh nhanh, thắng nhanh". Sau này, cả hai Ðại đoàn đóng quân gần bản Búng Tôm, xã Nà Nhạn.
Ông Nguyễn Hữu Chấp nguyên là lính pháo binh tham gia trận Ðiện Biên Phủ từ đầu chiến dịch tới ngày quân ta toàn thắng (hiện cư trú tại tổ dân phố 20, phường Him Lam, thành phố Ðiện Biên Phủ, tỉnh Ðiện Biên) nhớ lại: Lượt kéo pháo ra, xuất hiện một tấm gương cứu pháo vô cùng quả cảm, đó là anh Tô Vĩnh Diện, Tiểu đội trưởng pháo cao xạ 37mm thuộc Ðại đội 827, Tiểu đoàn 394, Trung đoàn 367. Ðêm 1-2-1954, đơn vị của Tô Vĩnh Diện kéo pháo ra đến dốc Chuối, mặt đường rất hẹp và nghiêng tới 70 độ. Trời lác đác mưa phùn, rừng núi hoang vu và màn đêm đen đặc, hai bên đường "mốc giới" được xác định bởi những cành củi mục lờ mờ ánh lân tinh. Trung đội trưởng Trần Quốc Chân đi trước dẫn đường, mình mặc áo mưa lộn trái cho mầu trắng ra ngoài làm tín hiệu. Hai người là Tô Vĩnh Diện và pháo thủ Nguyễn Văn Chi trực tiếp lái càng khẩu pháo đầu tiên xuống dốc. Chiến sĩ Ðài và chiến sĩ Ước cầm cục gỗ chèn hai bánh pháo, một người gõ mõ làm hiệu lệnh.
Xuống được nửa dốc, mọi người đang nín thở ghìm sợi dây chão thì bỗng đâu tiếng pháo địch nổ chát chúa, những ánh chớp xanh lẹt làm cả khu rừng bừng sáng. Ðất đá rơi rào rào cùng tiếng cành cây kêu răng rắc bị mảnh pháo phạt gãy. Ðoàn quân kéo pháo đã có người bị thương nhưng tất cả vẫn bám chắc sợi dây, ai cũng hiểu chỉ cần một vài người mất bình tĩnh, lỏng tay thì ngay lập tức khẩu pháo sẽ lao xuống vực. Thêm một loạt bom của địch giội xuống, dây tời chính (ở giữa) bị mảnh bom cắt đứt, hai sợi dây hai bên còn căng hơn cả dây đàn với hàng trăm cánh tay cuồn cuộn đang cố ghìm lại khối thép nặng hơn hai tấn. Vài người ngã còng queo trên sườn dốc, chiến sĩ Chi bị càng pháo hất bay xuống vực. Một mình Tô Vĩnh Diện đang dồn hết sức bình sinh, cố kiểm soát chiếc càng pháo đang quăng quật một cách hung hãn như muốn đập nát bất cứ thứ gì.
Trong lúc nguy biến, Tô Vĩnh Diện hô to: "Anh em, thà hy sinh, quyết bảo vệ pháo!". Rồi, bằng một hành động phi thường, anh chạy thật nhanh lên phía trước lấy thân mình chèn vào bánh pháo. Do một bên bánh bị vướng, khẩu pháo mất thăng bằng, trọng lượng dồn nghiêng vào sườn núi và dừng lại. Khẩu pháo cao xạ 37mm được an toàn, nhưng Tô Vĩnh Diện đã vĩnh viễn ra đi. Trung đội trưởng Trần Quốc Chân ra lệnh kê chèn thật kỹ rồi moi đất gỡ Tô Vĩnh Diện ra, bốn chiến sĩ tức tốc đưa anh về trạm xá tiền phương đóng ở bản Tẩu Pung (xã Nà Nhạn). Nhưng muộn mất rồi, trên cánh tay đồng đội anh trút hơi thở cuối cùng với câu hỏi xé lòng: "Các đồng chí... ơi... pháo có việc gì... không?".
Toàn đơn vị đứng nghiêm một phút mặc niệm người anh hùng, rồi tất cả lại bắt tay vào việc kéo pháo ra trước khi trời sáng để tránh máy bay địch. Khoảng 5 giờ sáng hôm đó (2-2-1954), khẩu pháo được đưa ra vị trí đã định. Ðến ngày 5-2-1954 (mồng 3 Tết Âm lịch Giáp Ngọ), khẩu pháo cuối cùng được kéo về vị trí tập kết an toàn. Tận ngày 7-2-1954 (mồng 5 Tết Âm lịch Giáp Ngọ), các đơn vị mới ăn Tết. Dưới những cơn mưa ngàn, Ðại tướng Võ Nguyên Giáp đến thăm và chúc Tết, biểu dương cán bộ, chiến sĩ đã làm tròn nhiệm vụ chuyển pháo vào trận địa rồi lại chuyển pháo ra theo đúng phương châm tác chiến của trên...
Ðược biết khẩu cao xạ 37mm mà Tô Vĩnh Diện lấy thân chèn bánh mang số hiệu 510681, thuộc loại pháo phòng không 37mm một nòng, mẫu 61-K kiểu M1939, do Liên Xô sản xuất và viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong 56 ngày đêm của chiến dịch Ðiện Biên Phủ, khẩu cao xạ đó đã lập thành tích bắn rơi ba máy bay và bắn bị thương 13 chiếc khác. Kết thúc chiến dịch, năm 1958, khẩu pháo được đưa về trưng bày tại Phòng truyền thống của Bộ Tư lệnh Phòng không, nay là Bảo tàng quân chủng Phòng không - Không quân. Ngày 1-10-2012, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 1426/QÐ-TTg, công nhận khẩu pháo cao xạ 37mm số hiệu 510681, là "Bảo vật quốc gia".
Tấm gương hy sinh anh dũng của Tô Vĩnh Diện đã cổ vũ mạnh mẽ toàn thể cán bộ, chiến sĩ trong chiến dịch "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu". Dịp kỷ niệm hai năm Chiến thắng Ðiện Biên Phủ (7-5-1956), anh được truy tặng Huân chương Quân công hạng Nhì và danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
(Còn nữa)