"Sân chơi" cho các nhà khoa học

Sự phát triển, khả năng tiếp nhận và làm chủ nhiều công nghệ hiện đại trong những năm gần đây đã góp phần đưa khoa học về y - dược nước ta tiến những bước đáng kể, thậm chí đã có một số lĩnh vực theo kịp, ngang hàng với các nước tiên tiến.

Rất nhiều bệnh nhân là thai nhi đã được cứu sống nhờ ứng dụng laser quang đông điều trị hội chứng truyền máu song thai và dải xơ buồng ối.
Rất nhiều bệnh nhân là thai nhi đã được cứu sống nhờ ứng dụng laser quang đông điều trị hội chứng truyền máu song thai và dải xơ buồng ối.

Từ nghiên cứu đến ứng dụng

Chương trình "Nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ tiên tiến phục vụ bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cộng đồng" (KC.10/16-20) là một trong các chương trình khoa học - công nghệ trọng điểm cấp nhà nước do Bộ Khoa học và Công nghệ quản lý và được chia thành nhiều giai đoạn thực hiện. Thông qua Chương trình, nhiều kỹ thuật tiên tiến đã được ứng dụng trong chẩn đoán và điều trị bệnh góp phần cứu sống nhiều người bệnh với giá thành rẻ hơn so với đi nước ngoài điều trị. Đầu năm 2017, khi chương trình vừa bắt đầu giai đoạn mới (2016 - 2020), các nhà khoa học, bác sĩ của Học viện Quân y đã nghiên cứu, thực hiện thành công ca ghép phổi đầu tiên tại Việt Nam. Bệnh nhân là cháu bé Ly Chương Bình (7 tuổi, xã Bát Đại Sơn, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang), bị giãn phế quản bẩm sinh lan tỏa hai phổi, đã biến chứng suy hô hấp, tâm phế mạn và suy dinh dưỡng độ III, buộc phải thay cả hai lá phổi. Học viện Quân y phối hợp với chuyên gia Nhật Bản thực hiện cắt bỏ toàn bộ, sau đó lấy một thùy phổi từ bố và một thùy từ bác ruột của bé để ghép. Ca ghép thành công và hiện tại cháu bé sống khỏe mạnh, đánh dấu tên Việt Nam trên bản đồ ghép tạng thế giới.

Các nhiệm vụ thuộc chương trình cũng giúp nghiên cứu và phát triển nhiều kỹ thuật tiên tiến trong công nghệ sinh học phân tử. Ứng dụng kỹ thuật này Việt Nam đã sản xuất các loại kit hiệu quả như: kit phát hiện mức độ đứt gãy ADN của tinh trùng phục vụ chẩn đoán vô sinh nam; kit chẩn đoán ký sinh trùng sốt rét, sán lá gan...

Hầu hết các giải pháp và công nghệ mới có kết quả đều được ứng dụng ngay trong thực tiễn, điển hình như: Sử dụng tế bào gốc tự thân từ mô mỡ và tủy xương trong điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính đang được ứng dụng điều trị tại Bệnh viện Bạch Mai; liệu pháp miễn dịch điều trị ung thư như: tế bào miễn dịch tự thân gamma delta T và diệt tự nhiên điều trị ung thư phổi, liệu pháp tế bào CAR-T điều trị bệnh bạch cầu lympho cấp có kết quả tốt trong thực nghiệm, sẽ được ứng dụng trong lâm sàng; quy trình ghép thùy phổi hoặc một phổi từ người cho sống hoặc người cho chết não đã được ứng dụng tại Bệnh viện Quân y 103, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức; sử dụng tế bào gốc tự thân trong điều trị chấn thương sọ não hiện được ứng dụng tại Bệnh viện Trung ương Huế; sử dụng tế bào gốc tự thân trong điều trị đột quỵ não đang được áp dụng tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108; ứng dụng kỹ thuật sinh học phân tử và kỹ thuật laser quang đông ở thai phụ mắc hội chứng truyền máu song thai và dải xơ buồng ối hiện được ứng dụng rất hiệu quả tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội…

Kết nối nhà khoa học với doanh nghiệp

Dưới góc độ một nhà quản lý, một nhà khoa học đã tham gia thực hiện nhiều đề tài thuộc Chương trình KC.10/16-20 qua các giai đoạn, Trung tướng, GS, TS Đỗ Quyết - Giám đốc Học viện Quân y cho rằng, Chương trình đã mang lại rất nhiều thành tựu, và về mặt xã hội, đã tạo được niềm tin của nhân dân vào nền khoa học của Việt Nam, "Bộ Khoa học và Công nghệ đã có một hướng đi vô cùng tốt, tạo ra sân chơi cho các nhà khoa học về y học và đã tạo nên nhiều thành tựu đột phá".

PGS, TS Nguyễn Tiến Quyết, nguyên Giám đốc Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức đánh giá các nghiên cứu, kỹ thuật phát triển nhanh chóng, bắt kịp trình độ của thế giới. Song, ông khẳng định vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn như rào cản về cơ chế tài chính, các thủ tục pháp lý còn nhiều vướng mắc dẫn tới việc chưa khích lệ những người làm khoa học. Ông gợi ý cần đổi mới trong thời gian tới, trong đó, giao toàn quyền cho các nhà khoa học tự vận hành lựa chọn người nghiên cứu, phía cơ quan quản lý kiểm soát bằng sản phẩm, đầu ra của đề tài.

Ghi nhận những đóng góp từ chương trình, Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ Trần Văn Tùng đánh giá, kết quả là những tâm huyết, đam mê của các thầy thuốc, chuyên gia, nhà khoa học vừa làm công tác chuyên môn, kết hợp nghiên cứu chuyên sâu, và mong muốn có sự kết nối, nhận được đầu tư của doanh nghiệp nhiều hơn để phát triển các kết quả chương trình vào thực tế. "Hoạt động đầu tư, đồng hành từ các doanh nghiệp, đầu ra từ quy trình điều trị, sản phẩm sẽ giúp chương trình trọn vẹn hơn, mang lại ý nghĩa kinh tế và xã hội", ông nói.

Để nâng cao hiệu quả, Bộ Khoa học và Công nghệ đang thay đổi trong công tác quản lý như về cơ chế quản lý, cơ chế tài chính, cách thức quản lý thực hiện các chương trình. Bộ cũng đang tập trung xử lý, điều chỉnh các thông tư, hướng dẫn quản lý các chương trình để thực hiện tốt nhất chỉ đạo của Chính phủ nhằm tạo điều kiện cho các nhà khoa học đam mê cống hiến, tập trung cao nhất cho chuyên môn và không bị khó khăn trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.