40 năm Ngày Giải phóng miền nam, thống nhất đất nước

"Con đường tiền tệ" trong kháng chiến

Nếu như tuyến đường Trường Sơn huyền thoại đã đưa biết bao thế hệ cha anh vào miền Nam chiến đấu; đường Hồ Chí Minh trên biển đưa hàng chục nghìn tấn vũ khí chi viện cho chiến trường Nam Bộ; đường ống xăng, dầu xuyên lòng đất góp phần bảo đảm nhiên liệu cho các đoàn xe vận tải... thì "con đường tiền tệ" trong những năm tháng kháng chiến lại có những đóng góp riêng, và thật đặc biệt.

Đội vận chuyển tiền C.100 thuộc Đ.559 trên cung đường Trường Sơn huyền thoại.
Đội vận chuyển tiền C.100 thuộc Đ.559 trên cung đường Trường Sơn huyền thoại.

Nhiệm vụ đặc biệt

Năm 1965, tại Hà Nội, Phòng B29 (thuộc Cục Ngoại hối - Ngân hàng Ngoại thương) được thành lập với biên chế 14 cán bộ. Nhiệm vụ của B29 là: Tập trung ngoại tệ viện trợ và ủng hộ cho miền Nam; bảo đảm chi viện kịp thời cho tiền tuyến. Tại miền Nam, Thường vụ Trung ương Cục miền Nam (TVT.ƯCMN) cũng bắt đầu chỉ đạo đơn tuyến một đơn vị mang bí số N.2683. Trưởng ban N.2683 là ông Nguyễn Văn Phi (Mười Phi-đã mất) và Phó trưởng ban là ông Lữ Minh Châu (Ba Châu). Nhiệm vụ của N.2683 là chuyển tiền chi viện (từ miền Bắc) tới các đoàn quân giải phóng miền Nam; tình báo, nắm tình hình kinh tế của chính quyền Ngụy Sài Gòn để báo cáo T.ƯCMN. Cán bộ, chiến sĩ N.2683 là 109 người (trong đó có 43 đảng viên).

Ngoài ra, tại T.ƯCMN còn có đơn vị C32 (Ban Ngân khố Tín dụng R) là tổng kho quỹ tiếp nhận, vận chuyển, bảo quản, chế biến (hối đoái) cấp phát tiền. Một đơn vị khác là B68 gồm các cán bộ ngân hàng miền Bắc chi viện bổ sung vào chiến trường từ Trị Thiên vào miền Nam. B68 đã tham gia chiến đấu, chịu nhiều khó khăn gian khổ, chấp nhận hy sinh xương máu để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao trong lĩnh vực kinh tế - tài chính - tiền tệ. Ðã có 81 cán bộ trong tổng số 452 cán bộ chi viện của B68 hy sinh trên chiến trường.

Sáng tạo trong hiểm nguy

Theo tư liệu của N.2683, cách vận chuyển tiền mặt vào chiến trường miền Nam được gọi là phương thức AM. Ban đầu N.2683 vận chuyển tiền bằng đường bộ, nhưng bom đạn ác liệt, một lượng lớn số tiền vận chuyển trên đường bị rách, cháy. Hồi ký của ông Mười Phi ghi rõ: "Phương thức AM rất chậm, khối lượng không nhiều, dễ tổn thất, địch dễ phát hiện, lại mất nhiều phí tổn đổi tiền (đổi 100.000 USD phải mất 2.700 USD phí). Thứ hai, với đà phát triển của chiến tranh, việc "chế biến" (đổi) từ đô-la ra tiền Sài Gòn cũng gặp khó khăn. Không thể nào "chế biến" một cách nhanh chóng một khối lượng tiền quá lớn trên thị trường miền Nam".

Ông Ba Châu hiện đang nằm điều dưỡng tại Bệnh viện Thống Nhất (TP Hồ Chí Minh) nhớ lại: "Tiền tới địa chỉ nào, thì nơi đó có đơn vị đặc nhiệm tiếp nhận và cất giữ. Ngày ấy T.Ư phân bổ theo từng khu vực lớn là: Trị Thiên-Huế, Tây Nguyên (B5), Nam Bộ (B2)... Việc, sử dụng, chi tiêu là công việc nội bộ từng nơi, dưới sự lãnh đạo toàn diện của từng Ðảng bộ. Kế toán từng khu vực đều tiến hành đối chiếu số liệu định kỳ với kế toán của B29. Trong phương thức chi viện AM, tiền USD vẫn chiếm tỷ lệ lớn nhất. Khi có nhu cầu chi tiêu, chúng tôi phải tiến hành "chế biến" tại chỗ. Việc chế biến này được thực hiện theo phương pháp phân tán, nhỏ lẻ để khỏi bị lộ". Còn theo ông Lê Hoàng, nguyên Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, những năm đầu, Tổng cục Hậu cần đóng gói tiền trong hòm kẽm chống cháy, cho vào thùng gỗ ngụy trang chạy dọc theo đường Trường Sơn vào nam. Có những lúc bị địch đánh máy bay, bỏ bom, USD không bị cháy hẳn nhưng bị nung nóng trong hòm kẽm, có tới gần bốn triệu USD bị như vậy, hàng chục chiến sĩ bị hy sinh. Trên đường Hồ Chí Minh trên biển, việc đưa tiền vào cũng khó khăn do bị đánh phá, ngăn chặn của tàu địch.

Bị đánh phá ác liệt trên Trường Sơn và trên biển, B29 sáng kiến ra cách vận chuyển hàng không. Ông Nguyễn Nhật Hồng (Ba Hồng) trực tiếp phụ trách B29 nói: "B29 dùng đường hàng không Air France của Pháp trên tuyến Hà Nội - Quảng Châu - Phnôm-pênh, cho đô-la vào cặp ngoại giao, bề ngoài đóng giả là cán bộ ngoại giao bay ba tiếng đến Phnôm-pênh. Từ Phnôm-pênh lại lấy ô-tô biển đỏ ngoại giao của sứ quán ta chạy hướng đến chiến khu Tây Ninh giao cho đồng chí Phạm Hùng mất thêm ba tiếng nữa. Như vậy 30 ngày đêm rút xuống còn sáu tiếng đồng hồ. Nhưng cách chuyển tiền này cũng chỉ duy trì được bốn năm, vì Lon Non ở Phnôm-pênh đảo chính, đường bay lại tắc. Lúc đó rất gay go vì USD không vào kịp chiến trường. Ngay dọc đường Trường Sơn, tiền thuê voi của Lào chở vũ khí, tiền mua lương thực từ Cam-pu-chia... không chi trả kịp thời được. Dọc theo các tuyến biên giới, ta không có tiền chi viện, tình thế rất gay go".

Từ đấy, những cán bộ chủ chốt của N.2683 đã được đưa vào nội thành để bám trụ, tạo cơ sở cách mạng. Chính trong cuộc sống, trong những gian truân của tình thế, đã nảy sinh những ý tưởng mới. Hai cán bộ Mười Phi và Nguyễn Thanh Quang (còn gọi là Năm Quang, Dân Sanh) đã sử dụng chính hệ thống ngân hàng của thế giới và của chế độ Sài Gòn để chuyển tiền cho cách mạng, gọi là phương pháp FM. Theo cách này, tiền chi viện (gọi là Z) được lấy ngay tại Sài Gòn qua một đường dây hoạt động nội thành của N.2683. Sau đó, hoàn trả cho nhà cung cấp tại ngân hàng nước ngoài bằng USD. Nhà cung cấp tiền Z tại Sài Gòn là những chủ kinh doanh lớn, sẵn sàng hợp tác với Dân Sanh. Họ có tài khoản tại các ngân hàng thương mại nước ngoài và ở Sài Gòn. Theo sự thỏa thuận với N.2683, họ rút tiền Z từ ngân hàng, lý do là để sản xuất, kinh doanh, thực tế là để cung cấp cho cách mạng. "Thí dụ, trường hợp ông Tư Trần An (một Hoa kiều chuyên nhập vàng từ Hồng Công về bán buôn cho các chủ tiệm vàng ở Sài Gòn) đã đồng ý cung cấp tiền Z cho Dân Sanh. Ðổi lại, ông được thanh toán bằng ngoại tệ vào tài khoản của mình ở nước ngoài. Ðôi đằng đều lợi. Cụ thể: Trần An rút tiền tại Sài Gòn cho N.2683. Sau đó USD sẽ được B29 thanh toán vào tài khoản của Trần An tại Hồng Công. Như thế, về phía Trần An đã giải quyết được việc rất quan trọng là hợp thức hóa được số tiền bán vàng ở trong nước, và tiền USD ở ngân hàng Hồng Công. Sau ít chuyến thuận lợi, ông Mười Phi đã báo cáo với các đồng chí Phạm Hùng và Nguyễn Văn Linh thì được nhất trí cho thực hiện FM lâu dài" - ông Lê Hoàng nhớ lại.

Tại miền Nam, N.2683 đã phối hợp các cơ sở tạo cho mình một cơ cấu bình phong rất rậm rạp gồm một đoàn xe tải, hai tàu đi buôn về miền trung. Về sau, còn có cả đoàn 40 xe tải mua bán gạo với Tây Nguyên. Khi ấy tiền Sài Gòn giấu trong gạo đưa ra miền Trung, dừng lại Vũng Rô (Phú Yên) và ban đêm thì bộ đội giải phóng dùng thuyền nhỏ ra nơi tàu neo đậu để nhận tiền, đưa lên núi. Theo quyết toán cuối cùng của B29, đến ngày 30-4-1975, phần viện trợ bằng ngoại tệ cho miền Nam (1964-1975) là 626.042.653,52 USD (của Trung Quốc); 200 nghìn tấn đường (của Cu-ba) tương đương 9.131.280 USD; Nam Tư 1.200.000 USD; Thái-lan 4.348.083 USD; nhân sĩ quốc tế 2.021.616 USD... Nguồn quỹ tồn đến cuối năm 1975 là 149.431.767,38 USD.

Trong 10 năm tồn tại, "con đường tiền tệ" huyền thoại trong kháng chiến đã đóng góp một phần vào thắng lợi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Ðể thực hiện nhiệm vụ này, không những chỉ có tấm lòng và của cải của nước bạn, của các nhà hảo tâm, mà còn có cả tài năng, ý chí và lòng trung thành tuyệt đối của một đội ngũ đông đảo những chiến sĩ thầm lặng ở B29, N.2683, ở khu căn cứ, trên những tuyến đường máu lửa của đoàn 559 và cả những người thầm lặng hoạt động ở hải ngoại...

Như một mạch nguồn xuyên suốt thời gian, ngành ngân hàng đã và đang tiếp tục nỗ lực, tạo nên những huyền thoại mới trên con đường tiền tệ, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng đất nước Việt Nam phát triển bền vững, tươi đẹp.

Ông Lê Văn Châu, Nguyên Phó Thống đốc NHNN (đại diện thường trú của B29 tại Hồng Công - Bắc Kinh):

Suốt 10 năm, một khối lượng tiền khổng lồ đã được vận chuyển đưa vào các chiến trường miền Nam một cách bí mật, an toàn. Tất cả số tiền viện trợ đó đều được bảo đảm toàn vẹn, để phục vụ chiến trường, không mất một xu. Ðây là thành quả to lớn, là vinh dự của cán bộ ngành ngân hàng và những anh em làm nhiệm vụ này.

Có thể bạn quan tâm