Giữ gìn cả năm giờ mang cho cái nắng miền trung nó phá”. Bỏ trốn Hà Nội để làm một cuộc du lịch bất đắc dĩ này dường như tôi mong tìm được lời giải nào đó cho cuộc đời mình. Khi nặn ra con người, Chúa vẫn nói người đàn ông này tạo ra để trao cho người đàn bà kia. Liệu chúa có biết đôi khi người đàn ông ấy không chỉ dành cho một người đàn bà? Và khi ấy cả ba người - họ biết làm thế nào hả Chúa?
Chúng tôi đến Lăng Tự Đức khi trời về chiều. Nắng đã nhạt vàng, rất nhanh. Ai đó bảo Huế tự dưng hay có những buổi chiều thế này. Trời đất bỗng bảng lảng, cây xanh, mây trắng và khói sương chợt vấn vương, vấn vương. Tôi đứng cạnh lầu Lưu Khiêm nhìn vơ vẩn mặt nước có những bông súng tím thầm nghĩ ngày xưa có người cung nữ nào theo vua Tự Đức đến đây, cũng đứng chỗ này, lòng cũng ngổn ngang như mình không?
Bạn tôi đập vào vai: “Cái ông vua đa tài này cũng hay nhỉ. Xây lăng cho lúc chết vậy mà lúc sống cũng đến đây điều hành chính sự. Lại còn dựng cả nhà hát nữa...”. Tôi theo bạn như một cái máy. Nhìn cậu bé khôi ngô mặc áo hoàng bào ngồi trên ngai vàng chụp ảnh, tôi mỉm cười. Rồi giật mình. Ký ức chợt đổ về.
* Trong một lần đi tắm, tôi sợ hãi nhận thấy ngực mình nhú lên hai trái tròn. Cái Thảo mắt nhắm tịt vì bọt xà phòng trên tóc chảy xuống nói như bà cụ non: “Sợ gì. Thế là lớn rồi đấy. Rồi còn thấy tháng nữa cơ...”. Tôi đờ cả người ra. Nó giội cố vài gáo nước, vuốt mặt, vẹt tóc sang hai bên, cười khanh khách: “Đồ nỡm, thế mày không biết à? Mẹ mày không nói gì sao?” Ưỡn ngực cho tôi nhìn bầu ngực tròn đã nây nẩy, nó tự hào: “Mẹ tao bảo tao sẽ lớn phổng lên cho coi, chẳng mấy mà cao vượt chị Thùy...”.
Mẹ tôi hay phải đi công tác, trên tôi là anh trai. Tôi chẳng biết chia sẻ với ai. Cái Thảo ghé sát miệng vào mặt tôi thì thào: “ Nhưng mày phải nhớ một điều chớ bao giờ để hơi tay con trai đụng vào. Nó sẽ to nhão ra”. Tôi khổ sở, thế hôm nọ tao đuổi nhau với thằng Tùng, vập ngực vào vai nó - có sao không? Con Thảo ngẫm ngợi một hồi rồi bảo- Vập vào vai không tính, chẳng sao hết. Nhớ là tay kia.
Thằng Tùng ở liền kề khu nhà tôi. Ba nó người Huế - nghe mọi người xì xào là dòng hoàng tộc. Nếu không có cách mạng biết đâu lên ngôi vua như chơi. Mẹ nó con nhà cách mạng nòi. Ba nó yêu mẹ nó mà theo ra ngoài này. Thằng Tùng chẳng có chút gì của Huế, kể cả giọng nói. Thế nhưng tôi hay nhìn và tưởng tượng cảnh nó mặc áo hoàng bào. Sang nhà nó, tôi cũng hay ngắm trộm cha nó. Ông lúc nào cũng có cuốn sách trên tay. Giọng ông trầm trầm, ấm ấm nghe rất thích. Vậy mà ông lại ít nói. Tôi hay rình xem ba nó khác người thế nào và thất vọng khi ông cũng ăn cơm, tắm giặt như mọi người. Thất vọng nhất là khi thấy ông cũng loanh quanh xếp hàng trước hố xí công cộng.
Nhưng sự tưởng tượng và những trang sách tôi đọc từ nhỏ lại không để tôi yên. Có phải bỗng dưng ai cũng gặp được hoàng tử đâu. Vì thế tôi vẫn cứ hay qua nhà thằng Tùng, cố săm soi theo dõi xem nhà nó có gì khác. Mẹ thằng Tùng đẹp lại hoạt, có cảm giác việc gì qua tay bà ấy cũng trôi veo veo. Bà ấy bảo: “Giải phóng rồi phải tính đến chuyện về Huế mình ạ. Cơ ngơi tổ tiên không thể không trông nom...” Ba thằng Tùng ậm ờ. Mẹ nó bảo: “Ngày xưa ai cũng sợ chẳng dám nhận có họ hàng gì trong nam. Giờ ở cơ quan chỗ nào cũng có người hồ hởi khoe anh chị cô bác ở Sài Gòn, Đà Nẵng...”. Cô ấy nhìn sang phía ba thằng Tùng và tự nói một mình: “Con cháu vua mà chẳng được làm vua... Phải dạy Tùng phép tắc thôi. Rồi cũng có ngày nó phải vào Đại Nội lễ tổ tông...”. Bỗng dưng tôi thấy thằng Tùng như được rọi bằng một thứ ánh sáng mới. Mặt nó sáng láng đầy vẻ thông minh. Cái trán cao có vết bò liếm trông hay hay. Nó vẫy tôi lại. Hai đứa bò xoài trên bàn xem bản đồ ba nó vẽ. Này con đường Thành Nội, Đông Ba, Ngự Viên, Lê Lợi, Bến Ngự, Nam Giao. Rồi An Cựu, Vĩ Dạ, Kim Long, Linh Mụ, Tịnh Tâm, Đại Nội... Tôi cùng nó nhẩm và cố khắc vào trong óc. Tiếng ba nó trầm trầm như ru. Nắng đổ nơi vòm cây, gió heo may đuổi tím cả chiều. Tôi như rơi vào một cơn mê và chẳng muốn ra. Có một cuộc sống khác hẳn bao phủ lên chúng tôi. Những bữa cơm ghế đầy mì sợi, những bó rau muống lá đốm vàng rơi trơ cả cuộng mà mẹ mua ở cửa hàng mậu dịch về, vừa nhặt vừa ca cẩm, chỉ lào thào qua tôi không đọng lại. Hóa ra có lúc người ta sống được bằng sự an ủi và viễn cảnh xa. Thằng Tùng bảo phủ nhà nó rộng mênh mông. Tôi với nó lang thang suốt ngày chắc không đi hết: “Rồi Thư với Tùng tha hồ nếm bánh ướt, bánh tôm, bánh bèo, bánh chấy mệ làm...”. Tôi nuốt nước bọt đánh ực, chắt lưỡi chẳng biết nói sao. Mãi mới bảo: “Huế xa thế Thư đi làm sao được?”. Thằng Tùng vuốt ngược lọn tóc bò liếm, nghiêm trang: “Thì sau này Thư lớn, Tùng sang xin phép bố mẹ Thư...” Tôi đỏ mặt vùng chạy.
Ba Tùng về quê. Nó bảo bà mệ ốm muốn ba về bàn việc. Chúng tôi ngồi trong đống cỏ lút đầu bên bờ mương sót lại từ hồi còn là ruộng. Có một con cào cào vụt đến trước mặt. Hai đứa thi nhau vồ. Con cào cào bé nhỏ lách chách nhảy ba bốn cái rồi bỗng biến mất đâu đó trong những búi cỏ xanh. Tôi ngẩn ngơ nhìn theo. Tùng gọi như dỗ dành: Cào cào giã gạo cho nhanh/ Mẹ may áo đỏ áo xanh cho cào...
Ba Tùng ra đem theo rất nhiều quà. Tôi nâng niu mãi chiếc bánh có hình hoa cúc trắng. Tùng bảo đó là bánh in- thứ bánh bằng bột nếp rang chín ngào đường xay rồi in bằng khuôn gỗ: “Bánh này thường thôi nhưng để được lâu. Những thứ bánh khác ngon không tả xiết mệ bảo bao giờ về Huế mệ sẽ làm cho Tùng ăn chán hỉ”. Tôi cắn đến cánh hoa cúc thứ tư, lắng nghe vị ngọt thơm tan đầu lưỡi, nhận ra giọng Tùng sao hôm nay khác lạ.
Ngồi bên ngó tôi loay hoay thêu dây ruy băng buộc tóc, Tùng trề môi: “Con gái phức tạp bỏ xừ. Bà Ngà còn đeo cái gì lấp la lấp lánh...”. Tôi dừng tay, thở dài. Tôi từng mơ bao lần có sợi kim tuyến và mấy hạt kim sa như của chị Ngà văn công ấy... Tùng nhìn vào tận mặt tôi: “Cậu mơ ước có sợi kim tuyến lắm à?”. Tôi thờ ơ gật đầu. Cái nhìn của Tùng khiến tôi đỏ mặt. Nó giơ tay như chực sờ vào má tôi, nghĩ sao buông thõng xuống: “Cậu chẳng cần làm dáng cũng xinh chán...”. Tôi ngoắt đi, chẳng thèm nói. Tùng ngẩn mặt, lúc sau ra về. Tôi cười thầm. Dạo này khối người khen tôi xinh.
Lâu sau Tùng quay lại, đặt vào tay tôi sợi kim tuyến. Suýt nữa thì tôi rú lên. Tôi chải mái tóc đen mướt quàng chiếc ruy-băng bằng sa-tanh đen có hàng kim tuyến thêu vàng óng ánh. Trong gương mái tóc, gương mặt và cả đôi mắt tôi cũng rực lên. Tôi thập thò qua nhà Tùng. Tự nhiên trở lên rón rén. Có tiếng mẹ nó quát tiếng ba nó cản, tiếng roi vút. Nhưng tuyệt nhiên không thấy tiếng thằng Tùng khóc hay xin lỗi như mọi bận.
Tôi nép bên cửa. Mẹ nó rít lên: “...Có biết đấy là cái yếm của ba mày ngày nhỏ được đích thân bà Hoàng phi thêu tặng không. Con ơi là con. Của gia bảo chứ có phải đồ chơi đâu mà mày tháo ra. Thế này thì còn dạy dỗ làm sao...”. Tim tôi đập thình thịch. Thảo nào những sợi kim tuyến cũ rối thế. Tôi ngoái vội tay ra sau tháo khuy bấm, cuộn ruy băng nắm chặt trong tay. Tôi run như giẽ. Rồi co cẳng chạy. Mẹ tôi ngạc nhiên mắng: “Con gái con đứa lớn rồi mà chạy huỳnh huỵch như ma đuổi thế - ý tứ để đâu?”. Hôm sau tôi làm như vô tình bảo Tùng: “Mình chưa kịp thêu ruy băng đâu. Cậu có cần sợi dây kim tuyến làm gì không?”. Nói thế nhưng tôi nhìn Tùng, ruột lộn tùng phèo trong bụng. Tùng phẩy tay: “Tớ cần gì những thứ đó. Thư thích là được mà”. Tôi không kìm được nỗi vui mừng nhưng vẫn cố vớt vát một cách giả dối: “Cậu không cần thật chứ”. Tùng bảo: Không cần. Rồi một lát sau nói thêm: “Để làm vừa lòng Thư thì việc gì Tùng cũng làm”. Tôi bỗng dưng không hiểu sao hỏi ngớ ngẩn: “Thế nếu Tùng là Hoàng tử thì sao?”. Tùng nói chắc chắn như đinh đóng cột: “Thì Thư làm công chúa...”. Tôi ré lên “lêu lêu” rồi chạy biến, cố giấu đôi má đỏ bừng.
Chập tối Tùng sang rủ tôi “Đi xem phim ở bãi không?”. Tôi xin phép mẹ, nói dối là đi cùng cái Thảo. Hai đứa băng qua con đường phi lao cao vút. Trời tháng sáu sáng mờ mờ. Gió thổi vi vút trên kia, thổi rạt qua má, qua tóc. Lòng tôi cũng sung sướng và tung tăng như ngọn gió. Tôi nói huyên thuyên đủ thứ còn Tùng im lặng đi bên, chỉ nghe tôi nói. Bộ phim thần thoại sao giống như giấc mộng của tôi. Đồng cỏ xanh trải dài tít tắp, những cây táo nở hoa cả bốn mùa, hoàng tử, công chúa, tình yêu và tuổi trẻ... Tôi xuýt xoa không kiềm chế: “Nếu gặp một chàng hoàng tử như thế, mình sẽ cố lớn thật nhanh...” Tùng bỗng dưng gắt lên: “Vớ vẩn, đấy là phim”. Tôi nhấm nhẳng: “Mặc kệ, Thư cứ chờ đấy. Làm sao nào?” rồi ngửa cổ phá lên cười khanh khách.
Bỏ Tùng lững thững phía sau tôi chạy vụt lên phía trước. Bỗng có bóng đen xô ra từ con đường kế bên. Tôi chẳng kịp hiểu gì đã thấy hai bàn tay cứng như kìm sắt vồ lấy ngực mình. Tiếng kêu chết nghẹt trong họng không thoát ra khỏi đầu lưỡi. Tiếng Tùng hổn hển từ phía sau: “Sao thế Thư?”. Bàn tay đen đúa kia còn cố bóp thêm cái nữa... Tôi đổ vật xuống đường. Bụi sặc vào tận cuống họng. Hai mắt tôi trơ ra, không biết chớp. Hai chân chuột rút tê cứng, đau không chịu nổi. Tùng quỳ xuống đỡ tôi dậy. Tôi sợ hãi lê vào cạnh đường kinh hãi: “Xê ra, bỏ tay ra”. Giọng tôi lẩy bẩy vỡ òa. Tôi gượng dậy thập thễnh đi. Tê dại, khủng khiếp. Chui vào nhà tắm, giội nước đến răn reo cả da thịt, tím tái cả môi giữa đêm hè tháng sáu. Chỉ đến khi mẹ tôi đập thình thịch ngoài cửa buồng tắm tôi mới ngừng. Hôm sau tôi sốt 39oC và nghỉ học suốt tuần. Chủ nhật nằm trong nhà tôi nghe náo loạn bên hàng xóm. Tùng cầm đầu một đám trẻ con, ném đá vào nhà người đàn ông nào đó. Bị bắt, bị đánh đau... Mấy ngày sau nghỉ hè. Tôi theo mẹ về quê, ở lỳ suốt ba tháng. Khi trở về tôi mới biết cả nhà Tùng đã về Huế. Anh trai tôi bảo: “Nó nhắn là sẽ quay lại tìm gặp mày…”. Tôi ngó trân trân nhưng chẳng thấy gì. Có một cái gì đó đã chết. Không có hoàng tử, công chúa. Chẳng có thần tiên. Chỉ có đôi bàn tay đen nhớp nhúa bóp bầu vú mới chớm nở của tôi đau nhức đêm đêm.
* Người bạn gái ôm vai tôi. Bàn tay chị trượt xuống lưng: “Mày là đứa rất gợi tình”. Tôi lắc đầu: “Điều ấy phải do đàn ông nhận xét”. Chị buông thõng: “Chỉ đàn bà mới biết cảm nhận. Đàn ông hả - chỉ hưởng thụ mà thôi”. Tôi im.
Tình yêu có đủ để tôi lấy Duy. Vậy mà càng sống với nhau càng thấy tình yêu nhẹ gót bay đằng trước, tôi hụt hơi đuổi đằng sau. Nhiều khi chán nản và cay đắng quá đành ngồi ôm mặt. Nước mắt cũng chẳng đủ để thấm ướt nỗi cô đơn.
Nghề của tôi khá tự do. Bản thân tôi luôn bị lực hút vô hình từ những chuyến đi xa. Nằm lăn giữa cánh đồng lúa đang gặt dở, tôi giang rộng chân tay hét với lên bầu trời cao rộng trên kia. Mùi nồng nàn của những hạt thóc vừa cắt khỏi gốc, những cọng rạ hăng tươi ùa vào lồng ngực khiến tôi chới với. Tôi lưu giữ mỗi chuyến đi qua sự cảm nhận mùi. Chúng nằm lại đâu đó trong tâm thức. Chỉ cần có cái gì khơi đến là những cảm xúc sẽ vẹn nguyên và tôi y như đứa con lạc bầy đã lâu, sẵn sàng quay ngược gót trở về. Những bài viết của tôi được đánh giá cao trong tòa soạn. Nó mang đậm hơi thở của cuộc sống- khi bình báo nhiều người thường nói thế. Còn tôi thì cười thầm trong bụng - nó mang đậm hơi thở của chính tôi. Lâu lâu không đi, quanh quẩn ở thành phố là tôi thấy bứt rứt, thấy cái gì mình viết ra cũng trở nên nhạt nhẽo. Duy chồng tôi có lần trước chuyến đi của tôi, năn nỉ: “Em đâu có bị bắt buộc phải đi? Làm báo mà vẫn thấy người ta ngày hai buổi đi về như công chức...”. Tôi cười như mếu: “Em đi có lâu đâu. Hai ngày thôi mà. Mọi việc ở nhà em đã sắp xếp đâu vào đó. Anh chịu khó chút xíu thôi”. Duy hét thằng Jy sang nhà bà ngoại, mặt nặng như đá đeo. Tôi cố xuống nước - xa em một chút anh mới thấy cần em hơn. Duy chẳng nói chẳng rằng rồ xe đi thẳng, chẳng kịp cho tôi thơm thằng bé.
Tôi xuống Tà Phìa - một con bé người Dao lớn hơn con trai tôi chút ít, có khuôn mặt tròn và nâu rám, lẵng nhẵng bám theo tôi: “Cô mặc quần áo người Kinh cũng xinh. Nhưng cô mà mặc váy áo người Dao còn xinh hơn nhiều”. Nó mời tôi mua những chiếc vòng thêu đeo tay giá một nghìn đồng. Tôi lắc đầu. Nhìn vẻ mặt tần ngần của con bé, tôi không nỡ, lấy năm nghìn đồng ra cho nó. Lúc xuống suối nó móc trong ngực áo chiếc vòng: “Cho cô để lấy may. Đeo cho người bạn yêu của cô tốt lắm”. Ngồi trên tảng đá giữa dòng suối, tôi lấy máy nhắn tin cho Duy: “Có cô bé tặng em chiếc vòng thêu. Em nhớ anh và con nhiều” Một lúc sau đã có hồi âm: “Vui vẻ quá phải không? Nhớ gì đến bố con nhà này!” Mặt Duy vẫn lặng như nước ao tù. Tôi cảm thấy hơi ê chề nên chẳng thèm vồn vã. Con trai đã ngủ say, tôi kéo chăn nghiêng mình về góc phòng cố nhắm mắt. Tôi ngủ chắc là khá say, chỉ bị đánh thức bởi bàn tay cứng như thép của ai đó bóp chặt hai bầu vú. Nỗi ám ảnh xưa chợt thức dậy. Tôi kêu thét lên. Đèn bật sáng. Gương mặt Duy đầy vẻ khó hiểu, ghé sát mặt tôi. Tôi đột nhiên ghê sợ. Vì kỷ niệm đen tối xưa? Vì gương mặt Duy đầy nhục dục lúc ấy? Không biết. Chỉ biết rằng nỗi sợ chợt trào lên trong tôi, và không chỉ lần ấy!
Thứ bảy, Duy bàn hay anh cùng em đến chơi nhà ông tổng biên tập. Tôi ngạc nhiên lễ tết chẳng phải tự dưng đến làm gì?. Duy thủng thẳng đến chơi nói chuyện để ông ấy thông cảm chuyển em về làm biên tập. Tôi khó nhọc mới cất được lời: “Anh đừng xen vào việc cơ quan em được không?”. Duy đâu có biết thư ký tòa soạn mấy lần đề nghị chuyển tôi về ban thư ký. Tôi thì chẳng thiết cái việc suốt ngày đút chân nơi gầm bàn cắm mặt xuống những trang bản thảo của người khác để đến lúc giở tờ báo mới ra thấy cái gì cũng quen quen mà lại chẳng phải là của mình!. Tổng biên tập thì lại tiếc những bài viết đầy bản năng của tôi... Nên giờ tôi mới còn ở yên ban phóng viên thế này. Duy nhìn tôi dò hỏi: “Có gì quá đâu. Anh nghĩ ông ấy sẽ thông cảm”. Không muốn mà tôi chợt gắt lên: “Em là người lớn rồi, không cần bảo mẫu. Vả lại anh chấp nhận em nghĩa là phải chấp nhận nghề của em”. Duy ngẩng phắt, mặt vênh lên đến ghét: “Hôm nọ tôi thấy mấy cô nhà báo xuống doanh nghiệp ăn mặc như đến vũ trường, gặp giám đốc lả lả lơi lơi...”. Tôi tím mặt: “Loại đó cũng có thể có nhưng không phải là tôi”. Duy cao giọng: “Người ta không hơi đâu phân biệt... Tôi cũng đã từng không biết giấu mặt vào đâu khi có người bảo thẳng sao lại cho vợ đi làm cái nghề lang thang dễ hư hỏng”. Tôi không thốt thêm được lời nào, cố dướn cổ nuốt sự uất nghẹn. Chuyện đã bắt đầu từ bao giờ? Tôi chợt nhớ đến những cú gọi điện thoại giữa buổi: “Em ở đâu? Đang làm gì?”. Ai cũng bảo tôi được chồng yêu và bao bọc đến là kỹ. Tôi chỉ cười trừ.
(Còn nữa)