Ông Nhờ là cái tên mà người làng đặt cho. Người ta gọi ông là ông Nhờ vì ông thường mang đơn đi khắp các cơ quan, đoàn thể nhờ giải quyết những khúc mắc của ông. Thế nhưng ông lại nhiệt tình với tất cả mọi người. Có lần nhà cô Lâm mất con gà mái đẻ, ông sốt sắng bảo để tôi viết đơn đề nghị nhờ công an xã tìm giúp! Cô Lâm lắc đầu "Của đi thay người". Nhưng ông vẫn viết, vẫn lên... nhờ chính quyền tìm giúp.
***
Tụi trẻ con chúng tôi hay sang vườn nhà ông hái trộm xoài. Có hôm đang trộm xoài thì bị ông Nhờ đi đâu về bắt được, chúng tôi chạy tán loạn. Ông chỏ gậy chửi:
- Sư bố chúng mày, trộm xoài nhà ông hả! Ông giồng từ ngày bằng tuổi chúng mày, giờ được ăn phải để ông ăn chứ... Ông ngập ngừng nhìn lên cây xoài. Ơ mà cao thế kia ông leo lên sao được, lắm quả thế ông ăn sao hết. Hờ hờ... Thế mai mấy đứa lại sang hái trộm cho hết đi nhé, không để rụng cũng hoài... Giọng ông trầm hẳn xuống. Ông nghiêng người ngó vào gian nhà bé xíu. Nhưng trộm xong rồi phải để lại cho ông vài quả nhé. Bạn ông ngày xưa cũng thích ăn xoài, cũng hay đi trộm xoài... Hờ hờ. Rồi thì mới có cây xoài này đấy... Ông nói đến đây, tụi tôi lò dò đi vào, hì hì cười với ông rồi đặt mấy quả xoài to mọng lên ban thờ. Ông gật gù. Thế mới phải. Là bạn ông mang ươm hạt đấy... Những lúc ông đứng trước ban thờ như vậy, tôi thấy ở ông ánh mắt xa xăm, mông lung, miệng ông khẽ mỉm cười, gương mặt trở nên mơ hồ nhưng mang vẻ thanh thản như thể ông chưa từng nhăn trán suy nghĩ về những đơn kiện, về những lý sự cần trình bày với chính quyền.
Căn nhà gỗ của ông rộng chừng hơn chục mét vuông. Bất kể mưa nắng, tôi chưa bao giờ thấy cánh cửa nhà ông khép lại. Ngay cả khi ông đi đâu đó, thậm chí đi vài ngày, cửa vẫn mở rộng. Ông bảo để bạn ông còn về. Ðồ đạc trong nhà chẳng có nhiều. Mấy bộ quân phục bạc mầu, một cái mũ cát, đôi dép cao-su, chiếc gậy ba-toong. Một cái hòm nhỏ ở cuối giường. Bộ ấm trà bằng gỗ do chính tay ông làm. Nhưng tất cả mọi thứ đều toát lên vẻ sạch sẽ, gọn gàng và ngăn nắp. Trên bàn thờ, có một bát hương, tấm ảnh Bác và lá cờ đỏ sao vàng năm cánh treo vuông vắn. Nhiều hôm, tụi tôi trèo cây hái trộm quả bắt gặp ông ngước nhìn bàn thờ và lầm bầm như nói chuyện với ai đó. Giọng nghe trầm trầm chứ không sang sảng như lúc ông thuyết lý về cái đơn kiện nào đấy. Thi thoảng ông bật cười. Có lúc lại thẫn thờ như mất mát cái gì thật lớn lao. Ðôi khi ông khóc một mình...
***
Chị em tôi đang hì hụi nướng khoai dưới bếp thì bác Tư vào. Vừa lúc bố tôi về, chưa kịp xuống xe bố tôi đã hớn hở khoe:
- Vừa ở ngoài chợ về. Ông Nhờ đang bù lu bù loa lên với mấy ông trên xã về cái gian nhà của ông ấy. Xã thì muốn phá đi vừa là để mở rộng chợ, vừa là để cho cái chợ được vuông vắn, đẹp đẽ. Nhưng ông Nhờ không cho.
- Lại kiện chứ hả? Bác Tư cắt ngang.
- Còn phải hỏi. Ông ấy bảo sẽ kiện, sẽ nhờ cấp trên, trên nữa can thiệp. Hai người cười vang rồi vào nhà uống nước. Chả rõ rồi còn nói những chuyện gì mà thỉnh thoảng lại thấy phá lên cười giòn tan.
Thời trước, làng tôi có cái đình to, linh thiêng lắm. Bà tôi vẫn thường bảo, bây giờ có muốn dựng lại cái đình ấy thì cả làng này phải nhịn đói ít nhất ba năm mới đủ. Khi giặc Pháp càn tới đây, các cụ đành phải bàn nhau phá bỏ đình vì sợ giặc chiếm đình lập bốt, làm đồn lại khổ dân. Hòa bình lập lại, người ta làm một con đường liên xã, liên huyện chạy qua nền đất đình. Thành ra, bây giờ một bên đường thì bán đất cho dân xây nhà. Còn một bên là sân đình thuở trước thì làng vẫn để lại làm chợ. Vốn để lại được cái mảnh sân ấy để bây giờ bà con họp chợ cũng là công của ông Nhờ. Ông đấu tranh mãi, người ta mới chịu để lại không bán nốt miếng đất ấy. Rồi ông dựng một gian nhà nhỏ, vừa là trông chợ, quét chợ, vừa bán những đồ lặt vặt cho học sinh đi học. Nói là bán, chứ ông bán thì ít, cho thì nhiều. Mấy năm nay, sức khỏe giảm sút, ông đóng cửa để đấy. Bây giờ người ta muốn ông nhượng lại nốt cái gian nhà để người ta phá đi, xây lại chợ cho vuông vắn. Người ta sẽ có bồi thường cho ông. Ông không chịu. "Ðó không phải đất của tôi mà bồi thường. Không phải là của tôi nhưng... tôi giữ. Tôi giữ bao nhiêu năm nay rồi. Không phá, chợ vẫn họp bình thường, có ảnh hưởng gì đâu... Hừ... Không được ép tôi quá. Không là tôi... tôi... tôi nhờ chính quyền giải quyết đấy. À mà... mà nhờ huyện cơ đấy. Bây giờ mà phá thì bạn tôi...". Ông đang chỏ gậy tứ tung, nói rất hùng hồn, nhưng đến đó, bỗng chùng lại. Ông đưa mắt nhìn vào gian nhà nhỏ, buồn buồn, rồi rẽ đám đông đi về. Tay chống gậy, tay vắt sau lưng, ông bước từng bước chậm chạp. Bóng ông đổ xiêu vẹo trên con đường bê-tông chói nắng. Ông không đồng ý, người ta cũng không muốn đôi co nhiều. Phần vì theo mọi người nói ông vẫn hâm hấp thế, phần vì ông là thương binh, lại cũng chẳng mấy nữa mà chết.
Ngày tôi còn nhỏ, ngay cạnh chợ này, có một cây đa to chết khô từ bao giờ. Thân cây đa mục rỗng một lỗ to, hai đứa trẻ con tụi tôi chui vào cũng vừa. Có lần, vào lúc chiều tối, tôi nhìn ra chỗ cây đa thấy có người đàn ông mặc áo may ô trắng, quần đùi đỏ đi vào gốc đa. Tôi cứ đứng nhìn mãi, nhìn mãi cho tới khi mẹ gọi về ăn cơm mà vẫn không thấy người đó đi ra. Từ cổng nhà tôi nhìn ra chỗ cây đa cũng chẳng đáng bao xa. Ðã hai ba lần tôi nhìn thấy người đó đi vào gốc đa rồi chẳng thấy trở ra, tôi cứ rủa thầm sao lại vào đó mà làm chuyện bậy bạ. Tôi kể cho bà tôi nghe, bà giật mình thảng thốt hỏi "Người đó có vẫy, có gọi cháu không?". Tôi lắc đầu. Bà thở phào. Rồi hôm sau, bà đem giồng cây dâu trước ngõ, bắt tôi lúc nào cũng phải đeo cái bùa mà bà xin được ở đâu đấy và dặn: "Nếu người đó có gọi thì không được thưa, có vẫy thì không được đi tới". Tôi gật đầu. "Chắc ông Mùi vẫn không bỏ thói quen trốn trong đó đợi dọa bà Chín...". Bà tôi lầm bầm một mình. Tôi chẳng hiểu có chuyện gì, cũng không dám hỏi. Rồi không nhớ là năm tôi học lớp mấy thì cây đa bị bão quật đổ. Không ai dám lấy củi về đun. Người ta chở thân cây lên chùa để. Có người bảo cũng may là bão quật đổ chứ cứ để vậy cũng không ai dám động vào.
***
Mấy ngày trôi qua, chẳng ai thấy ông Nhờ vác đơn đi kiện. Rồi chợt thấy ông lặng lẽ bê cái bát hương từ trong gian nhà đầu chợ về để lên ban thờ. Ông đứng hồi lâu, lặng lẽ, bất động. Tụi trẻ con chúng tôi nín thở ngồi trên cây để xem ông sẽ làm gì tiếp theo. Nhưng cuối cùng ông chỉ nói mỗi câu "Ðồng ý rồi thì ở đây nhé, trả lại cho làng xây chợ".
Ông trả lại gian nhà cho chính quyền. Cũng từ hôm ấy, ông ít khi ra khỏi nhà. Tụi tôi sang trộm quả hay bắt ve, ông cũng chỉ đưa mắt nhìn rồi lại quay vào. Không biết ông ốm, hay buồn chuyện gì, tụi tôi cũng không dám ồn ào, chỉ ngắt quả, mang vào để lên ban thờ như mọi khi rồi lặng lẽ ra về. Một hôm, tụi tôi mang quả vào đặt lên ban thờ, thấy ông Nhờ nằm ngủ yên trên giường. Nóng thế này, không bật quạt mà cũng ngủ được. Mấy đứa lầm rầm bảo nhau rồi chạy ra ngoài bắt ve. Tụi tôi chơi trò xe bò kéo bằng mấy chú ve bắt được cả buổi mà cũng không thấy ông Nhờ tỉnh dậy. Lúc vào nhà uống nước vẫn thấy ông nằm im như thế. Tưởng ông ốm, mấy đứa lại gần, lay mãi, gọi mãi ông cũng không tỉnh dậy, không trả lời. Ông nằm im, miệng như mỉm cười, gương mặt thanh thản.
Người ta kéo đến chật cả gian nhà của ông. Người thì bảo làm ma cho ông thế nào, ông chẳng con cái gì. Người thì bảo mỗi người góp một ít thế nào chả đủ lo cho ông nấm mộ... Nhưng khi người ta mở cái hòm nhỏ của ông ra thì cả gian nhà chật cứng người lặng phắc. Bác Tư bày tất cả lên bàn. Một quyển sổ tay, một bao thư đã ngả mầu và một xấp tiền. "Thế là ông ấy cũng chả mượn ai lo ma cho ông ấy cả". Trong quyển sổ tay mà giấy đã ngả mầu vàng ố, người ta đọc được một vài cái mốc ông Nhờ ghi lại. Tất cả những ngày tháng, sự kiện chỉ được ghi rất vắn tắt. Qua mấy trang giấy bỏ không, người ta lại bắt gặp một trang viết rất dài. Nghe bác Tư đọc, tôi khóc, và rất nhiều người cũng ứa nước mắt.
Tôi từng hỏi bà tôi tại sao ông Nhờ không lấy vợ, không đẻ con. Bà tôi bảo bà cũng không biết. Từ ngày giải phóng tới giờ ông ấy vẫn sống như vậy. Bây giờ nghe những gì trong cuốn sổ tay của ông, tự dưng tôi thấy tiếc một ông Nhờ hoạt bát, hài hước, lạ lùng và lý sự.
"Anh là một thằng đàn ông hèn nhát và ích kỷ. Anh yêu em nhưng lại không dám nói cho em biết tình cảm của mình. Ðến khi em yêu Mùi, anh lại đem lòng ghen ghét, đố kị. Anh đố kị cho tới cả khi em không còn trên thế gian này nữa. Anh đố kị tới mức bức thư cuối cùng em nhờ anh gửi cho Mùi anh cũng không gửi. Bây giờ anh muốn gửi cũng không được nữa rồi. Thuở nhỏ hai đứa tụi anh hay trốn chung trong gốc đa dọa em, bây giờ Mùi vẫn khư khư giữ cái gốc đa ấy, anh vẫn chưa dám gửi thư giùm em...".
Trang cuối của cuốn sổ ghi mấy dòng rất ngắn. "Ðó cũng không phải đất nhà mình. Ông đồng ý về với bọn tôi rồi thì đừng ra đó nữa nhé. Trả lại cho làng...". Bác Tư đọc hết cuốn sổ tay, mọi người vẫn ngồi im lặng. Mãi lâu sau mới có người lên tiếng hỏi về chuyện làm ma cho ông. Người ta lại bàn cãi về chuyện nên đọc điếu văn là ông Nguyễn Văn Nhờ như ông vẫn thường ký dưới các đơn kiện hay lấy tên của ông là Lê Doãn. Mấy đứa tụi tôi nhận mặc áo dài trắng, đội vòng rơm, chống gậy bên linh cữu ông. Mộ ông được chôn ngay dưới gốc xoài. Lúc đắp mộ cho ông xong, tụi tôi mang đốt quyển sổ tay và phong thư ố vàng. Rồi chẳng cần ai bảo, một đứa trèo lên cây hái xoài, đặt lên ban thờ vài quả, đặt lên mộ ông vài quả. Tấm bia trên mộ ông khắc dòng chữ Ông Nguyễn Văn Nhờ.
Làng cho phá bỏ gian nhà nhỏ, quy hoạch lại chợ. Ðổ nền bê-tông, dựng ba dãy lán tre. Các hàng rau cỏ, thịt cá được sắp xếp lại gọn gàng, hợp lý hơn. Người ta thỉnh thoảng lại nhắc chuyện ông Nhờ. Có người bảo người con gái được nhắc đến trong cuốn sổ của ông Nhờ là bà Chín. Ngày trước ông Nhờ, bà Chín và ông Mùi thân nhau lắm. Ði đâu làm gì cũng luôn có mặt cả ba người. Ông Mùi còn rất hay nấp trong gốc cây đa đầu làng dọa bà Chín. Lớn lên, cả ba người cùng tham gia kháng chiến. Ông Mùi hành quân lên mãi Tây Bắc. Ông Nhờ với bà Chín ở lại tham gia du kích. Rồi người còn người mất. Nhưng chẳng ai rõ thực hư chuyện tình cảm giữa ba người.
Chợ họp ngày nào cũng đông vui nhộn nhịp. Cũng có lúc người ta quên câu chuyện ông Nhờ. Nhưng mỗi lần bất chợt ai nhắc đến thì mọi người lại nhao lên mỗi người góp một câu, mỗi người thêm một ý. Thành thử chuyện về ông Nhờ chẳng bao giờ làm người ta chán cả.
Cánh cửa nhà ông Nhờ vẫn chẳng bao giờ khép lại. Tụi tôi biết, ông sẽ không bao giờ muốn khép cửa. "Ðể bạn ông còn về". Chúng tôi vẫn thường sang vườn ông chơi, ngắt trái và thắp hương cho ông, cho bà Chín, cho ông Mùi.