TP Hồ Chí Minh

Một thời “xé rào, bung ra” để đi tới

Trong chặng đường phát triển 40 năm sau khi miền nam hoàn toàn giải phóng, có một giai đoạn rất đáng nhớ đối với những người từng sống và làm việc ở TP Hồ Chí Minh. Đó chính là thời kỳ vô cùng khó khăn nhưng cũng đầy cảm hứng sáng tạo và tinh thần vượt khó từ năm 1977 đến trước thềm đổi mới 1985. Vai trò đầu tàu của thành phố trung tâm đối với cả nước thể hiện rõ vào thời kỳ đầy dấu ấn này.

Bí thư Thành ủy TP Hồ Chí Minh Nguyễn Văn Linh (thứ hai bên trái) thăm Xí nghiệp liên hợp máy công cụ (20-1-1984). Ảnh: TL
Bí thư Thành ủy TP Hồ Chí Minh Nguyễn Văn Linh (thứ hai bên trái) thăm Xí nghiệp liên hợp máy công cụ (20-1-1984). Ảnh: TL

Trong hai năm đầu tiên sau ngày 30-4-1975, vượt qua rất nhiều khó khăn, bỡ ngỡ của những ngày đầu hậu chiến, TP Hồ Chí Minh đã hoàn thành việc tiếp quản thành phố, giữ gìn an ninh trật tự, tập trung khôi phục sản xuất và phát triển kinh tế để bước đầu ổn định đời sống nhân dân. Thế nhưng, bước vào năm 1977, sự gãy khúc trong cơ chế vận hành kinh tế ở một đô thị trung tâm công nghiệp lớn và đông dân nhất Việt Nam đã làm lộ ra những lỗ hổng nghiêm trọng: ngành công nghiệp thiếu nguyên liệu và phụ tùng thay thế trầm trọng (do không có nguồn nhập khẩu thích ứng như trước đó, do cơ chế quản lý phi thị trường cứng nhắc, duy ý chí). Nhiều cơ sở sản xuất phải đóng cửa, nhiều xí nghiệp không đủ nguyên liệu sản xuất đã phải cho công nhân nghỉ việc hàng loạt hưởng 70% lương. Cộng vào khó khăn kinh tế chưa có lối ra, năm đó, thành phố lại phải thực hiện chủ trương của trung ương về cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh mà đỉnh cao là cải tạo tư sản thương nghiệp vào tháng 3-1978 khiến hoạt động phân phối lưu thông bị xáo trộn, lòng người cũng bị xao động rất lớn. Tháng 6-1978 xảy ra vụ “nạn kiều” mà TP Hồ Chí Minh là một tâm điểm lớn để các thế lực thù địch lợi dụng. Lũ lụt nặng ở đồng bằng sông Cửu Long cùng năm đó ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn cung ứng lương thực, thực phẩm của thành phố. Và, còn cả hai cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía bắc cũng diễn ra trong năm 1977 đến 1979!

Nhìn rõ được rào cản rồi thì phải xé rào thôi, để các sáng kiến được áp dụng, để sản xuất bung ra, không còn cách nào khác!

Phác họa lại bức tranh trên đây với những gam màu tối chỉ để thấy rõ hơn trách nhiệm rất nặng nề của đội ngũ cán bộ, trước hết là những người lãnh đạo trong việc làm xoay chuyển các gam màu theo hướng sáng lên. Phải chuyển, nhưng chuyển thế nào khi mà các giải pháp thông thường đều bị trói buộc bởi cơ chế quản lý kinh tế hết sức duy ý chí về phân phối lưu thông, về xuất nhập khẩu...? Với gần bốn triệu dân, thành phố tiêu thụ mỗi tháng khoảng 45.000 tấn lương thực nhưng Trung ương chỉ cung cấp được xấp xỉ 30.000 tấn. Chẳng lẽ ngồi khoanh tay nhìn dân thiếu gạo ăn? Chẳng lẽ nhắm mắt trước tình trạng các cơ sở công nghiệp lớn, nhỏ không thể nhập khẩu nguyên liệu, vật tư, phụ tùng thay thế phục vụ sản xuất?

Tinh thần trách nhiệm trước dân đã khiến những người lãnh đạo TP Hồ Chí Minh lúc đó - đứng đầu là Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt kiên quyết từ chối khoanh tay trước tình trạng “bế tắc”. Ban Thường vụ Thành ủy phân công nhau, kể cả Bí thư Thành ủy, trực tiếp đi đến 15 xí nghiệp, nhà máy trọng điểm để nghiên cứu tình hình, lắng nghe đề xuất, tìm ra những vướng mắc chủ yếu để tháo gỡ. Bí thư Võ Văn Kiệt trong nhiều ngày liền đi đến Nhà máy Dệt Việt Thắng ở Thủ Đức - một nhà máy đông công nhân và máy móc ở thời điểm đó khá hiện đại. Có nhiều bữa ông Kiệt và các cộng sự ở lại nhà máy ăn trưa, nghỉ trưa với công nhân. Quan sát thực tiễn, trò chuyện với cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và công nhân, người đứng đầu thành phố và các cộng sự của mình hiểu ra rằng: rào cản lớn nhất và cũng là thủ phạm của tình trạng trì trệ sản xuất chính là cơ chế quản lý kế hoạch tập trung cao độ, phi thị trường, bất chấp hiệu quả, khiến cho các sáng kiến không thể thực thi. Nhìn rõ được rào cản rồi thì phải xé rào thôi, để các sáng kiến được áp dụng, để sản xuất bung ra, không còn cách nào khác!

Từ các cuộc nghiên cứu thực tiễn ấy, Ban Thường vụ Thành ủy quyết định không chờ cấp trên nữa mà chủ động đề ra một số chủ trương, chính sách, biện pháp để thoát ra khỏi sự trì trệ, bế tắc, như: mở rộng quyền chủ động cho các cơ sở sản xuất được tự khai thác nguyên liệu, vật liệu thay vì chờ phân phối; được xây dựng kế hoạch liên kết, hợp tác với các tỉnh thay vì chỉ được làm kế hoạch do Nhà nước cân đối; được thực hiện chính sách ba lợi ích, xây dựng lương khoán, trả lương theo sản phẩm, thưởng tăng năng suất, thưởng phát huy sáng kiến... Tiếp theo chủ trương của Thành ủy là việc ban hành các văn bản hướng dẫn của UBND thành phố về các bước bổ sung kế hoạch ba phần, quy định tỷ lệ trích lợi nhuận để khen thưởng thỏa đáng cho việc phát huy sáng kiến tăng năng suất lao động; quyết định “khui kho nguyên liệu” của thành phố và của Trung ương trên địa bàn thành phố để cấp cho các xí nghiệp sản xuất (các kho này từ sau ngày giải phóng đóng cửa nằm im vì cơ chế chưa cho phép khui!). Thành phố còn thành lập hẳn một công ty kiều hối để thu đổi kiều hối của hàng nghìn, hàng vạn gia đình có người thân ở nước ngoài gửi về với tỷ giá thỏa đáng. Ngoại tệ đó đem đi nhập nguyên liệu, vật tư phục vụ sản xuất. Việc làm táo bạo của TP Hồ Chí Minh vì sự sống còn của sản xuất đã buộc Trung ương phải nghiên cứu, cho phép thành phố được xuất nhập khẩu trực tiếp sau khi đã hoàn thành chỉ tiêu đại ngạch cho Chính phủ, Trung ương. Nhà máy Dệt Việt Thắng, Nhà máy Dệt Thành Công, Xí nghiệp máy may Sinco, Xí nghiệp Thuốc sát trùng miền nam...theo các chủ trương táo bạo và hướng dẫn sát sườn đó mà cục cựa chuyển mình, rồi từng bước sống lại, đi tới.

Từ những chủ trương và biện pháp tháo gỡ hết sức chủ động và rất sớm, bằng cung cách làm ăn mới lấy hiệu quả kinh tế làm chủ đạo, tình hình sản xuất của TP Hồ Chí Minh chuyển biến rõ rệt.

Giải quyết khó khăn về gạo ăn cho người dân thành phố cũng là một câu chuyện thú vị thể hiện rõ bản lĩnh và bản sắc lãnh đạo của đội ngũ cán bộ thành phố “dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm”. Quyết liệt nhất, xông xáo nhất vẫn là hình ảnh người đứng đầu của đội ngũ ấy: Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt. Chính ông đã cùng Giám đốc Công ty lương thực thành phố Nguyễn Thị Ráo (Ba Thi) trực tiếp tìm hiểu và nắm rõ tình hình: các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long hồi ấy đang tồn đọng một lượng lớn lương thực nhưng lại không được phép bán ngoài kế hoạch để lấy tiền trang trải nhu cầu cấp bách về hàng tiêu dùng, phân bón, thuốc trừ sâu của địa phương mình... Thay mặt Thường vụ Thành ủy, ông Kiệt quyết định chỉ đạo bà Ba Thi thương lượng mua bằng được số lương thực đó, vượt qua biết bao trạm kiểm soát mang tính “ngăn sông cấm chợ” đem về phân phối ở hàng nghìn điểm bán gạo trong thành phố, nhờ đó ổn định được nhu cầu lương thực của người dân. Bà Ba Thi từng bị hăm he “làm sai chính sách coi chừng bị bắt bỏ tù”, nghe được chuyện đó ông Kiệt nói, không đùa giỡn chút nào “Đừng lo, chị mà bị bắt thì tui đi đưa cơm. Vì cơm no, áo ấm của dân thì làm cái gì cũng không sợ, miễn đừng tham lam nhũng nhiễu”.

Tháng 8-1979, Hội nghị Trung ương 6 (khóa IV) họp và ban hành Nghị quyết về tình hình và nhiệm vụ cấp bách với yêu cầu: tình hình kinh tế và đời sống nhân dân đang có nhiều khó khăn, Đảng và Nhà nước phải có những chủ trương và biện pháp cấp bách, mạnh mẽ, kiên quyết, đem lại hiệu quả thiết thực nhằm đẩy mạnh sản xuất và bảo đảm đời sống nhân dân, khắc phục những mặt tiêu cực trong hoạt động kinh tế và xã hội... TP Hồ Chí Minh và Bí thư Võ Văn Kiệt đã vui mừng hơn bất cứ địa phương nào về Nghị quyết này, bởi tập thể lãnh đạo thành phố nhận ra rằng những chủ trương của thành phố về “xé rào” để sản xuất bung ra, kinh tế phát triển thật sự là đúng hướng, là phù hợp với tinh thần của Nghị quyết. Liền sau đó, Chính phủ đã ban hành các quyết định bãi bỏ tình trạng “ngăn sông cấm chợ”, cho phép lưu thông hàng hóa và thị trường tự do; quyết định đổi mới quản lý xí nghiệp quốc doanh (QĐ 25/CP và QĐ 26/CP) với kế hoạch ba phần, tự chủ cân đối vật tư, nguyên liệu từ nhiều nguồn...

Từ những chủ trương và biện pháp tháo gỡ hết sức chủ động và rất sớm, bằng cung cách làm ăn mới lấy hiệu quả kinh tế làm chủ đạo, tình hình sản xuất của TP Hồ Chí Minh chuyển biến rõ rệt từ cuối năm 1980; giá trị sản xuất công nghiệp tăng liên tục trong các năm 1981 - 1982. Sản xuất ổn định, đời sống công nhân được cải thiện thấy rõ không những đã kéo lao động trở lại nhà máy mà còn thu hút thêm lực lượng lao động mới. Kết quả này thật sự là đà đẩy, là vốn liếng quý giá cho sự phát triển của thành phố sau này.

Kinh nghiệm chủ động “xé rào” để sản xuất bung ra và phát triển kinh tế theo hướng thị trường tự do hơn, hiệu quả kinh doanh cao hơn, đời sống người dân cải thiện rõ rệt hơn đã đem tới cho TP Hồ Chí Minh luồng gió mới vào những năm đầu thập kỷ 80. Hồi đó, có những người đã nhận xét mơ hồ nhưng cũng khá “nguy hiểm”: bước xuống sân bay Tân Sơn Nhất là nghe sặc mùi Nam Tư. Nhưng, cũng vào những năm ấy, người đứng đầu tập thể lãnh đạo thành phố “sặc mùi Nam Tư” lại được cấp trên điều động ra Trung ương để làm nhiệm vụ chỉ đạo kinh tế - xã hội ở cấp toàn quốc. Bốn mươi năm rồi, nhớ lại và ngẫm ra càng thấy, hẳn là bài học “xé rào vì sản xuất, vì đời sống nhân dân” của TP Hồ Chí Minh dạo ấy đã thật sự được trân trọng thay vì băn khoăn, nghi ngại.

Có thể bạn quan tâm