Lung linh Giồng Trôm

Nhắc đến hai từ "Bến Tre", người ta thường liên tưởng đến cây dừa và nhà thơ Nguyễn Ðình Chiểu. Nhưng khi bước chân đến huyện Giồng Trôm, một trong chín Ðơn vị hành chính trực thuộc tỉnh, thì những hình ảnh, sự kiện khác lại hiện lên, nào là Hận Cầu Hòa, bom na-pan đốt trường Linh Phụng, nào là bà Nguyễn Thị Ðịnh, ông Ðồng Văn Cống... Vậy mới là chuyện lạ.
Đồng chí Nguyễn Thị Định ở chiến khu Đông Nam Bộ năm 1968.
Đồng chí Nguyễn Thị Định ở chiến khu Đông Nam Bộ năm 1968.

Không lạ sao được. Cho đến bây giờ cả nước vẫn tự hào về một nữ tướng nổi tiếng cả thế giới. Ðó là Phó Tổng Tư lệnh quân giải phóng miền nam Nguyễn Thị Ðịnh.

Không lạ sao được, một trong những nguyên tắc tối thượng trong quân sự là giữ bí mật nơi đóng quân, nhưng đối với Ðồng Văn Cống lại nói thẳng với giặc rằng: 'Bộ đội ông Cống đóng ở Bàu Dơi. Thằng nào muốn chơi vào đây chơi. Ðừng đốt nhà dân, đốt nhà dở ẹt'. Bị sỉ nhục, Pháp dẫn quân vào, ông điều quân đánh cho một trận tan tác diệt 30 tên, thu 32 súng, kịp thời trang bị cho quân ta.

Cầm máy ảnh như Phạm Khắc cũng làm nên hành động anh hùng, được Nhà nước phong tặng nhiều danh hiệu cao quý từ Nghệ sĩ Ưu tú, Nghệ sĩ Nhân dân rồi Anh hùng Lao động. Cuối đời, ông còn kịp đi dọc con sông lớn và dài nhất Ðông Dương, để lại cho đời một tác phẩm không thể hơn - Mê Công ký sự.

Không lạ sao được, một con người mà 'lúc ấy tôi không thích thú cho lắm với cuộc sống gắn liền với bông băng, ống chích, thuốc men, những vết thương, những tiếng rên la và dường như ít có nụ cười', vậy mà chỉ gần năm năm lăn lộn với thương binh, cô ý tá Ðoàn Thị E vẫn được tập thể ghi công và đề nghị phong tặng danh hiệu Anh hùng chỉ vừa bước vào tuổi 23.

Ðó là bé Sắc, mà người đời bây giờ gọi là 'em bé Tân Thanh', tuổi chỉ mới lên mười, chứng kiến mẹ bị giặc tra tấn cho đến chết, rồi đến em cũng chết đi sống lại chỉ vì không khai báo cơ sở cách  mạng.  Trong  cơn  uất hận, em chỉ kịp nhìn thấy trái lựu đạn trên bàn làm việc của giặc là em lao tới nắm lấy, rồi vặn, bẻ, lựu đạn nổ tung, gần mười tên lính trong phòng tra tấn chỉ kịp la lên thất thanh một tiếng 'chết', để rồi phải bỏ xác vì hành động quả cảm của em.

Bến Tre có khoảng 20 vị tướng, thì Giồng Trôm có hơn một chục. Danh hiệu anh hùng cá nhân ở huyện lại có gần phân nửa so với toàn tỉnh. Ðánh giặc trên bờ cũng anh hùng, lặn lội dưới nước cũng anh hùng, tàu giặc nghe hai tiếng Hoàng Lam đặc công thủy là chọi mìn liên tục nhưng vẫn không thoát khỏi nạn.

Ðất Bến Tre mới tồn tại chỉ trên dưới 300 năm mà đã là đất 'địa linh nhân kiệt', thời nào cũng có người tài, mang ý chí yêu nước, thương dân. Ðặc biệt là cử Trị, cũng là bạn thơ với Nguyễn Ðình Chiểu, ghét - thương rạch ròi. Nếu như Nguyễn Ðình Chiểu ghét bọn xu nịnh, xu thời, còn thương là thương dân đen, dân lân, dân ấp, từ đó dựng lên một hình mẫu Lục Vân Tiên cương trực giúp người khi hoạn nạn... hình mẫu Kiều Nguyệt Nga, người con gái trung, trinh, tiết, nghĩa thì Phan Văn Trị nhỏ hơn tám tuổi, nhưng khẳng khái, khinh thường sự ươn hèn, khiếp nhược của bọn vua quan phong kiến trước uy lực của thực dân Pháp lúc bấy giờ.

Tôi đi trên đất Giồng Trôm, mỗi thước đất như thấm chất 'khởi nghiệp' của các bậc hiền tài. Càng xốn xang trong lòng khi người và đất Giồng Trôm hôm nay biết mang nhuệ khí 'hồi xưa' vào cuộc sống mới. Nhớ lần dự Ðại hội đảng bộ huyện Giồng Trôm tháng 6-2010 vừa qua, chị Bùi Thị Hằng, Bí thư Huyện ủy Giồng Trôm tâm sự: 'Nổi bật nhất ở huyện sau 35 năm giải phóng có thể nói lên mấy chữ: Ðiện, đường, trường, trạm, một hệ thống chính trị bền vững và lòng người hết mực vì quê hương'. Mới nghe sao có vẻ chung chung. Nhưng ai đã từng đến Giồng Trôm vào hai thời điểm: sau ngày giải phóng và bây giờ, thì sẽ thấy những điều chị Hằng nói là có cơ sở.

Trong chiến tranh, giặc đã đánh phá hầu hết các địa bàn, những cầu, đường, trường học, chùa chiền... gần như bị phá hủy. Sau chiến tranh, phần lớn diện tích ruộng vườn bị bom cày đạn xới xơ xác tiêu điều. Cơ sở kinh tế-xã hội phục vụ cho sản xuất và đời sống phải làm lại từ đầu. Thành tựu lớn nhất sau 35 năm xây dựng ở Giồng Trôm có lẽ là giải quyết được cái nghèo. Từ hơn 50% hộ nghèo, nay chỉ còn dưới 10%. Giao thông đường bộ từ chỉ còn một con đường độc đạo, người dân đi lại chủ yếu là xuồng, ghe thì nay bằng phương châm 'Nhà nước và nhân dân cùng làm', từ tỉnh lộ, đường huyện, đường xã các thôn xóm đều được trải nhựa và bê-tông hóa, tiến tới mục tiêu 'xe đạp đến nhà, hon-da đến ngõ'. Giáo dục cũng phát triển, hệ thống trường lớp nếu như trước đây toàn huyện chỉ có hai trường trung học, đến nay con số ấy đã đến hàng chục. Bộ mặt nông thôn và thành thị đang chuyển mình theo hướng hiệu quả và bền vững.

Ðất Bến Tre ra ngõ gặp anh hùng. Khó khăn còn nhiều, nhưng cũng có không ít điều kiện thuận lợi để vượt qua. Bởi lòng quả cảm và sáng tạo được phát huy tối đa và có hiệu quả nhất trong điều kiện mới.

Có thể bạn quan tâm