- Một ngày mới của ông thường bắt đầu như thế nào, có phải là đọc báo giống nhiều người?
- Có chứ. Thật ra bây giờ chủ yếu là tôi đọc qua mạng. Thời gian không có nhiều. Mà mạng thì nhanh lắm, lướt một cái ra được bao nhiêu thứ.
- Ông đọc để cập nhật thông tin, giải trí như một người bình hường hay còn... soi các lỗi vi phạm?
- Tôi đọc cũng để nắm thông tin là chính. Nhu cầu thông tin lúc nào chả quan trọng. Ngủ dậy sau một đêm, việc đầu tiên của tôi là xem truyền hình, xem các bản tin thời sự trên các kênh khác nhau. Bản tin này bổ sung cho bản tin kia, thế là đã có thể nắm được tương đối hoàn chỉnh các sự kiện. Đến cơ quan làm việc, buổi trưa lướt mạng một lần. Chiều trước khi về lại... lướt thêm lần nữa. Khi có vụ việc cần đi sâu tìm hiểu, tôi ghi nhớ để đọc kỹ hơn. Trong bối cảnh thông tin ngồn ngộn như bây giờ, phương pháp tiếp nhận, phân loại của mỗi người quan trọng lắm.
- Ở nước mình hiện nay, nhìn các trang báo, nhất là báo mạng và các ấn phẩm phụ của một số tờ báo, đôi khi hoảng hồn quá. Tin tức tràn lan, nếu không là “cướp giết hiếp” thì cũng rất tầm phào kiểu “sao” này “lộ hàng”, “sao” kia bị vợ (chồng) phụ bạc?
-Điều này tôi cũng đã lên tiếng. Nhiều người luôn cảm thấy sao có nhiều báo thế. Tuy vậy xét các tiêu chí, số lượng bản báo trên bình quân đầu người ở nước ta chưa phải là nhiều. 87 triệu dân mà có chưa tới 10 triệu bản báo một năm. Nhiều nước họ có đến mấy bản trên đầu người một ngày. Lượng báo không lớn, nhưng độc giả cảm thấy nhiều một phần do cung cách đưa tin theo dạng “đồng phục”, không căn cứ vào tôn chỉ mục đích của từng tờ. Thí dụ có một vụ cướp của giết người, lẽ ra báo dành cho phụ nữ phải bình luận hợp với sự quan tâm của phụ nữ, báo của thanh niên chọn hướng tiếp cận để định hướng được cho lớp trẻ, báo của cơ quan bảo vệ pháp luật cũng cần nhìn theo góc độ riêng của người làm luật. Nhưng trên các báo cứ một giọng điệu tình tiết rập khuôn. Người đọc luôn thấy nặng nề, đeo đẳng cảm giác vụ án này nghiêm trọng, kinh khủng lắm. Mấy năm trước có chuyện một cô hoa hậu bỏ nhà đi, thế mà có đến 500 bài báo ăn theo, nội dung đều gần gần giống nhau. Đấy, một vụ việc chỉ một vài tờ báo đưa đã kinh hoàng, đây hàng chục, thậm chí hàng trăm báo viết bài như nhau, độ dài tính chất giống nhau, người đọc thấy ngán là đương nhiên.
- Thật ra những người làm báo trong bối cảnh đương thời cũng bối rối, thường tự mình thở dài với chính mình: Sao báo chí giờ viết bài, đăng bài dễ dãi thế?
- Theo tôi, điều này có nguyên nhân từ quy trình tác nghiệp của các nhà báo. Nhiều tòa soạn đã bỏ qua một số khâu. Có những nhà báo, nhất là báo điện tử, mà nói nhà báo cho oai chứ họ có khi mới ra trường, thậm chí đang tập sự, thế nhưng theo dõi một sự kiện, họ viết bài trên máy tính rồi cứ thế đưa luôn lên mạng. Đến khi sai sót, rà soát lại mới vỡ lẽ, họ làm việc không theo một quy trình nào. Bài phóng viên viết ra phải qua người biên tập, qua phòng ban chuyên môn, qua thư ký tòa soạn, gọi ba khâu là thế. Ai cũng biết báo, nhất là báo mạng cần nhanh, nhưng nhanh để dẫn đến ẩu và sai sót là không chấp nhận được. Quy trình làm báo luôn luôn được tôn trọng ngay ở trong các tòa soạn hiện đại nhất. Tôi sang nước Mỹ, đến thăm Thời báo Oa-sinh-tơn (Washington Times). Ông Chủ tịch, tức Tổng biên tập nói rất có lý: Trong thời đại công nghệ thông tin phát triển, người làm báo thuận lợi vô cùng. Tuy vậy nếu quá ỷ vào máy móc sẽ dễ mắc lỗi. Khi anh biên tập trên máy, phần sửa chữa của người biên tập thứ nhất, rồi thứ hai, thứ ba khó phân biệt được. Vì vậy công nghệ dẫu hiện đại đến đâu, bài biên tập vẫn phải in ra trên bản bont và ký vào để thuận tiện quy trách nhiệm khi gặp sự cố.
- Đành rằng báo chí phải hoạt động đúng tôn chỉ mục đích, nhưng éo le là, thuần túy như thế thì bạn đọc lại không quan tâm?
- Đừng hiểu tôn chỉ mục đích cứng nhắc theo kiểu đóng khung trong bốn bức tường. Mỗi tờ báo đưa thông tin đều có độ giao thoa nhất định, như một con lắc luôn dao động nhưng biên độ của con lắc đến mức nào thì chấp nhận được, dao động đến đâu thì bảo đảm? Có những tờ để biên độ con lắc vượt xa gấp hai, ba lần cho phép thì đã vượt khỏi ranh giới rồi. Người đọc tất nhiên luôn có nhu cầu thông tin về một sự kiện, vụ việc. Nhưng thông tin đến mức độ nào, đậm đặc đến đâu thì người làm báo phải tỉnh táo.
- Mỗi ấn phẩm báo chí nói chung, đều là diễn đàn của một cơ quan nhà nước. Nhưng hầu hết báo chí lại phải tự trang trải kinh phí, không được bao cấp. Áp lực tia-ra khiến nhiều tờ báo đã sa vào các câu chuyện giật gân để câu khách, thưa ông?
- Đấy cũng chỉ là cách nói ngụy biện. Có những tờ báo không có quảng cáo nhưng họ vẫn có nguồn thu bảo đảm được. Điển hình là một số tờ báo trong thời gian qua chuyên sâu vào các câu chuyện mà ngôn ngữ dân dã thường gọi là “nóng”, “hót”, lượng phát hành vẫn sụt. Người đọc luôn có sự lựa chọn công bằng. Những chuyện giật gân đánh vào trí tò mò, nên chỉ giải quyết được nhu cầu tức thời. Minh chứng là các số phụ của các báo hay đưa tin như thế, sau một thời gian bán chạy, nay đang chết dần.
- Đúng là người đọc, cũng có ước muốn cảm nhận được một sự ấm áp, tươi sáng của cuộc sống trên mặt báo?
- Trong xã hội đã có quá nhiều lo toan, ra đường có nhiều bất trắc như tai nạn giao thông, cướp giật, móc túi, con người luôn luôn trong tâm trạng bất an. Báo chí không làm dịu mối lo ấy đi thì thôi, lại nhân nỗi bất an lên là điều không phải. Trời đang nóng, phải giúp cho không khí mát mẻ hơn, dịu hơn, chứ đổ thêm dầu vào lửa cho sức nóng tăng lên thì bạn đọc cũng sẽ khó chấp nhận.
- Nhưng cũng có ý kiến cho rằng, báo chí chuyển hướng sang đề tài “rẻ tiền” là do đã có quá nhiều các “vùng cấm”, thưa ông?
- Chả có vùng cấm nào cả. Cốt yếu vẫn là báo chí thông tin như thế nào. Có những vụ việc chưa thu thập được tài liệu đầy đủ, chưa nắm hết mọi góc cạnh của vấn đề mà đã vội vàng đưa lên là thiếu hợp lý. Hay có những sự việc thoáng nhìn tưởng đã rõ ràng, nhưng bản chất thực lại chứa đựng nhiều yếu tố không dễ gì lý giải thông qua một bài báo. Cơ quan quản lý thường lưu ý nhắc nhở để làm sao báo chí tiếp cận đúng hạt nhân của vụ việc, đi đến tận cùng chân lý. Các cơ quan, các đơn vị, địa phương bị báo chí phê bình, phản ứng đầu tiên dễ hiểu là bực bội. Dẫu thế, nếu phê đúng, nói đúng, nói trên tinh thần xây dựng, họ sẽ nghe. Và mối quan hệ giữa báo chí với đơn vị bị phê vẫn tốt đẹp. Họ chỉ bất bình nổi giận khi sự việc bị suy diễn, thêu dệt, hoặc không phản ánh đúng thực chất. Có những vụ việc báo chí tung ra, các cơ quan chức năng phải chạy theo xử lý công luận còn mệt hơn. Sự quá đà của báo chí cũng khiến các cơ quan bảo vệ pháp luật bị áp lực từ dư luận dễ dẫn đến thiên lệch. Báo chí của chúng ta từng đề cập đến những vụ việc động trời mà vẫn nhận được sự đồng tình, có bị ai cấm cản, ngăn chặn gì đâu.
Hãy hiểu “vùng cấm” chỉ là khi có sự nhắc nhở để bảo đảm tính chính xác, hợp lý trong thông tin đưa ra. Thông tin đó phải giải quyết được vấn đề dư luận quan tâm và mang tính xây dựng.
- Ở cương vị quản lý của mình, ông đã bao giờ điện thoại cho lãnh đạo một cơ quan báo chí để yêu cầu không đăng cái này, phải đăng cái kia?
- Cũng có chứ. Bởi vì quản lý nhà nước về báo chí là hoàn toàn theo luật pháp. Luật pháp quy định rành rẽ, những gì được làm và những gì không được làm. Đôi khi có thông tin, bài viết chưa hẳn sai theo quy định của pháp luật nhưng nhìn toàn cảnh, đưa ra ở thời điểm đó không giải quyết được vấn đề gì, không có lợi cho dân, cho nước. Với trách nhiệm của mình, tôi trao đổi với các đồng chí Tổng biên tập rằng đăng lúc này không có lợi. Còn đăng lúc nào, người đứng đầu cơ quan báo chí sẽ hiểu. Nói chung, tôi chỉ nhắc trong những trường hợp cụ thể kiểu như thế.
- Ở nước mình nhiều người cứ ta thán là không có tự do báo chí. Nhưng đôi khi báo chí lại được tự do đến tự nhiên chủ nghĩa. Ví như có một nhân vật nổi tiếng nào đó vừa bị khởi tố bắt tạm giam, là y như rằng chân dung họ sẽ đồng loạt xuất hiện trên các trang báo như một kẻ tội phạm ghê gớm giỏi náu mình giấu thân phận. Trong khi, cơ quan công an mới đang trong quá trình điều tra? Điều này có là sai luật?
- Như thế không phải là tự do, nghĩa của tự do báo chí hay lắm. Như thế là quá đà, là vi phạm luật nghiêm trọng. Trình độ pháp luật của nhiều người làm báo chưa cao. Pháp luật quy định rồi, không ai là có tội khi tòa chưa tuyên án. Báo chí mình cứ thấy ai bị khởi tố là dùng những từ ngữ như dùng với tội phạm. Đã có nhiều quy định cụ thể, nhưng hiểu biết pháp luật của một số nhà báo chưa được như yêu cầu. Có lúc báo chí không chỉ sai luật mà còn thiếu nhân văn, thậm chí cay nghiệt. Trước đây có một tử tù ma túy bị thi hành án. Anh ta có tội, anh ta phải chịu. Con cái anh ta liên quan gì mà có báo viết vài kỳ về những đứa trẻ vô tội đúng lúc chúng đang bước vào tuổi lớn. Rồi các nhà báo còn tìm về tận quê anh ta, viết về ngôi nhà thờ của dòng họ. Dòng họ đấy có tội gì, sao các nhà báo quá quắt đến thế.
- Những tờ báo thông tin thiếu nhân văn như ông nói, có bị xử lý không?
- Có, xử lý hết. Tùy mức độ mà xử lý, hoặc phạt tiền, kỷ luật bằng các hình thức hoặc nghiêm trọng thì thu hồi thẻ nhà báo. Năm nào cũng phạt, cũng xử lý. Có năm xử lý tới 40, 50 vụ. 10 tháng đầu năm 2012 cũng xử lý xấp xỉ 30 vụ. Có năm thu hồi hơn 10 thẻ nhà báo. Đối với các nước chỉ cần bị lưu ý là tờ báo đó đã gần như sập tiệm. Hay có một thông tin làm xã hội bức xúc thì Tổng biên tập nên lo mà tự rút. Khi tôi đến thăm một tờ báo lớn ở Mỹ, Tổng biên tập đã có lịch tiếp. Nhưng trước đó vài ngày, Tổng thống khi ấy là ngài Gioóc-giơ Bu-sơ (George W. Bush) đã nhắc nhở tờ báo vì một thông tin không chính xác. Thế là Tổng biên tập không thể đủ uy tín để tiếp tục điều hành tờ báo. Ở các nước họ luôn nhấn mạnh, với báo chí, pháp luật là một phần nhưng đạo đức nghề nghiệp quan trọng lắm. Tôi đi các nước, mang về đến 16, 17 bộ quy ước đạo đức nhà báo, Hội Nhà báo Việt Nam cũng có Quy ước đạo đức nghề nghiệp nhưng hình như các tòa soạn chưa chú ý.
- Ý nghĩa tốt đẹp của tự do báo chí theo quan niệm của ông là gì?
- Nhiều người cũng đề cập, nhiều tài liệu cũng đã viết, theo tôi tự do báo chí đơn thuần là nhà báo, tờ báo thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm và các quy định luật pháp, các quy ước đạo đức nghề nghiệp. Mỗi nhà báo, mỗi cơ quan báo chí phải hiểu cái gì được làm, cái gì không được làm bởi đơn giản, không có tự do nào là vô hạn cả.
- Thực tế hoạt động báo chí đang tồn tại những băn khoăn như thế này: Đi họp báo về, được cung cấp thông tin, viết bài, nhưng vì lý do gì đó, bài báo không được đăng, tiếc bài ấy, nhà báo đưa lên mạng xã hội hoặc blog cá nhân. Điều này có được hiểu như quyền tự do của nhà báo, thưa ông?
- Vấn đề này đúng là rất mới. Đã có một hội thảo báo chí và mạng xã hội được tổ chức. Thật ra trước đó tôi chưa hiểu sâu đâu, qua hội thảo, nghe các anh các chị phát biểu, tranh luận, tôi đã vỡ ra nhiều điều. Trước đây nhà báo và cơ quan báo chí độc quyền về thông tin. Bây giờ tất cả mọi người đều có quyền thông tin. Ngay ở các nước, trong quy ước đạo đức báo chí họ cũng quy định, những thông tin phức tạp nhạy cảm của nhà báo không đăng được trên báo chí thì không được đưa lên mạng xã hội. Mạng xã hội chỉ là trao đổi thông tin theo dạng chia sẻ kinh nghiệm, chia sẻ tình cảm bình thường. Nhưng những vấn đề có tính chất tác động đến công chúng, hoặc đưa thông tin đến công chúng thì phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật về thông tin. Tuy là vấn đề mới nhưng các nhà báo nên quan tâm vấn đề này cả ở khía cạnh pháp luật và cả góc độ đạo đức nghề nghiệp báo chí. Đúng là, hoạt động báo chí, cũng tương tự như điều V.I. Lê-nin đã nói: Tự do là kỷ luật.
- Trân trọng cảm ơn ông về cuộc trò chuyện này.