Ký ức không bao giờ quên
Năm 1950, huyện Duy Xuyên tiến hành nhập xã lần thứ ba. Hai xã Duy Quang và Duy Nhất nhập lại thành xã Duy Hưng. Theo đó, hai chi bộ ở hai xã này hợp lại thành Đảng bộ Lê Hồng Phong với hơn 1.000 đảng viên. Tháng 3/1950, Đại hội đại biểu Đảng bộ xã Duy Hưng được tiến hành tại đình làng Vĩnh Trinh và bầu đồng chí Đào Kỵ làm Bí thư Đảng bộ. Ngoài ra, một số đồng chí đảng viên như Võ Tựu, Đào Phô, Đỗ Kiện, Bùi Mân, Bùi Khiêm, Nguyễn Cứ, Đinh A, Trần Bồi, Nguyễn Sở, Nguyễn Thị Hồng, Đỗ Đình Quang… được bồi dưỡng, bố trí phụ trách một số lĩnh vực công tác của xã Duy Hưng. Đầu năm 1953, huyện Duy Xuyên tiến hành phân chia sáu xã trong huyện thành 24 xã. Thôn Vĩnh Trinh, Cổ Tháp ngoài và Cổ Tháp trong thành xã Duy Khương. Chi bộ Đảng xã do đồng chí Bùi Mân làm Bí thư.
Là một địa bàn có nhiều thuận lợi về địa hình, địa vật trên lĩnh vực quân sự, nhân dân giàu truyền thống yêu nước, trong giai đoạn 1952-1954, cán bộ và nhân dân xã Duy Khương đã vượt qua nhiều khó khăn, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng. Cuối năm 1952, Trung đoàn 803 diệt đồn Xuân Đài, giải tù binh Pháp về nhốt tại đình Vĩnh Trinh. Ngày 19/7/1954, với trận đánh tan đồn Bồ Bồ, dân công và du kích xã tiếp nhận và nhốt tù binh Pháp cũng tại đình Vĩnh Trinh.
Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến tranh, khôi phục hòa bình ở Đông Dương, bãi bỏ quyền cai trị của người Pháp, công nhận nền độc lập của ba quốc gia Việt Nam, Lào và Campuchia, chính thức chấm dứt chế độ thực dân Pháp tại Đông Dương được ký kết vào ngày 20/7/1954, buộc Pháp công nhận độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Đất nước tạm thời chia cắt thành hai miền Nam - Bắc. Tuy nhiên, với âm mưu biến miền nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới, đế quốc Mỹ đã thay chân Pháp, dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm.
Trong khi, chúng ta nghiêm chỉnh chấp hành Hiệp định Giơnevơ, chuyển quân tập kết ra bắc và ổn định lại tổ chức thì chúng đã ngang nhiên cấu kết với bọn Quốc dân đảng, ráo riết chuẩn bị lực lượng, mở các chiến dịch tấn công đánh phá Đảng ta, tìm mọi cách hạ uy thế cách mạng. Dã man nhất là vụ chúng tàn sát 37 cán bộ cách mạng, trong đó có một nữ cán bộ đang mang thai ở đập Vĩnh Trinh vào đêm 21, rạng sáng 22/1/1955.
Những cán bộ, đảng viên này bị địch bắt giam ở đồn Hòn Bằng, chùa Bà Giám (Thọ Xuyên), sau đó chúng đưa đến đập Vĩnh Trinh thủ tiêu. Theo các vị lão thành cách mạng địa phương, vụ thảm sát này xảy ra tại phía dưới bờ đập, cách tràn xả lũ hiện nay khoảng 200 m. Thời kỳ đó, bờ đập thấp hơn và mực nước dưới lòng hồ sâu hơn. Đập Vĩnh Trinh là một địa điểm rất vắng vẻ, ít người lui tới, người dân chỉ vào đập để đánh bắt cá tôm hoặc vào bìa rừng để kiếm củi. Đến nay, có 24 đồng chí hy sinh tại đập Vĩnh Trinh được xác minh tên tuổi khắc trên tấm bia. Những chiến sĩ cách mạng còn lại chưa tìm được thông tin đã vĩnh viễn nằm lại giữa lòng đất mẹ.
Sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, năm 1985, chính quyền và nhân dân huyện Duy Xuyên cho khởi công xây dựng khu tưởng niệm vụ thảm sát Vĩnh Trinh. Giữa lòng hồ nước mô phỏng 38 đóa hoa sen tượng trưng cho những người đã hy sinh ngay tại con đập lịch sử này. Sau này, địa điểm vụ thảm sát Vĩnh Trinh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành Quyết định số 309/QĐ/BVHTTDL/2011 ngày 26/1/2011 xếp hạng di tích lịch sử quốc gia.
![]() |
| Cựu chiến binh Bùi Văn Nhành nhớ rõ lịch sử quê hương. |
Đổi thay trên quê hương
Chứng kiến quê hương Vĩnh Trinh phát triển từng ngày, cựu chiến binh Bùi Văn Nhành (sinh năm 1949) không khỏi bồi hồi khi lần tìm lại những năm tháng chiến đấu cùng đồng đội. Tham gia cách mạng từ năm 17 tuổi, ông Nhành đã trải qua nhiều trận đánh ác liệt trên quê hương. Trong gia đình ông Nhành đã nuôi ba cán bộ cách mạng gồm các ông Trần Ích, Trần Diệm và Lê Lưỡng. Nằm ở khu vực bị địch ném bom ác liệt, trong mảnh đất của gia đình ông Nhành có tổng cộng chín hố bom. Hiện tại, nền ngôi nhà được xây trên tám hố bom đã san lấp, hố còn lại ông Nhành vẫn giữ nguyên như một chứng tích thời kỳ bom đạn quân thù đã cày xới quê hương.
Từ năm 1960 là giai đoạn quân ta hoạt động bí mật. Đến năm 1969, vùng Vĩnh Trinh chỉ còn lại một số hộ dân trụ bám sinh sống, số còn lại di tản đến những vùng khác. Những năm tháng khó khăn, quân và dân Vĩnh Trinh chia sẻ nhau từng nắm cơm, rổ khoai, tăng cường sản xuất trồng trọt trong đêm tối, ban ngày cầm súng đánh quân thù. Tin tức về nơi tập kết, trang bị của địch được lực lượng du kích, đội thiếu niên cùng người dân trong làng cung cấp cho bộ đội ta nắm rõ nhằm bố trí lực lượng, chiến thuật đánh trả phù hợp. “Đêm nào quân mình muốn di chuyển về làng thì liên hệ trước cho đội du kích hỗ trợ, ra ám hiệu bằng ánh đèn dầu. Nếu không có ánh đèn dầu thì là nguy hiểm, đang có địch trong làng, quân ta sẽ không về”, ông Nhành cho hay.
Trở về sau chiến tranh, từ năm 1975 đến 1993, ông Nhành công tác tại Xí nghiệp Thủy lợi Duy Xuyên và thời kỳ này, nhiệm vụ của ông là giám sát quá trình xây dựng lại con đập Vĩnh Trinh. “Ngày 19/5/1977, tỉnh ký quyết định cho xây dựng, nâng cấp công trình đập Vĩnh Trinh từ dung tích 2,2 triệu m3 lên 22 triệu m3 như bây giờ. Thời điểm đó có hai đội cùng thi công ở đập, một đội cơ giới làm ở phần đập chính, còn đội chúng tôi làm thủ công ở phần đập phụ. Đất đắp đập được công nhân kéo bằng xe cải tiến từ khu vực ngoài vào công trường, làm cả ngày đêm. Nặng nhọc nhất là đội đầm đất thân đập. Hai người cùng khiêng một tảng bê-tông nặng mấy chục kg thả xuống đất đến khi đủ độ cứng, bảo đảm an toàn thân đập”, ông Nhành cho biết.
Với mục tiêu hoàn thành việc nâng cấp đập nước trong ba năm, mỗi ngày, trên công trường xây dựng duy trì số lượng công nhân từ 500-700 người. Giai đoạn cao điểm trong mùa mưa, mỗi ngày có hơn 1.000 người được huy động từ các xã Duy Phú, Duy Thu, Duy Hòa, Duy Châu, Duy Trinh, Duy Trung, Duy Phước và Duy Nghĩa vào xây đập.
Vĩnh Trinh, từ vùng đất chịu nhiều tổn thất sau chiến tranh, trải qua bao khó nhọc, mất mát hy sinh mới có được nền độc lập, những cựu chiến binh nơi đây đã và đang cùng nhau xây dựng đời sống kinh tế ngày một phát triển. Các tổ cựu chiến binh được thành lập, theo đó, các tổ viên cùng đóng góp nguồn kinh phí chung để hỗ trợ cho những cá nhân khó khăn có điều kiện phát triển kinh tế.
Từ năm 2001 đến 2012, hệ thống đường giao thông liên thôn, liên xã trên địa bàn Vĩnh Trinh đã được mở rộng, bê-tông kiên cố. Theo ông Nhành, có được kết quả khả quan đó chính từ công tác vận động và sự hỗ trợ nhiệt tình của người dân, trong đó đặc biệt là tấm lòng hiến đất mở đường của tất cả các hộ dân. Cựu chiến binh Bùi Văn Nhành khẳng định: “Sức mạnh của toàn dân rất quan trọng. Hồi chiến tranh quân ta nhờ dân cảnh giới, dân bảo vệ. Nay đã hòa bình cũng từ sức dân đóng góp để xây dựng quê hương”.
Phát huy truyền thống quê hương anh hùng, lớp thanh niên Vĩnh Trinh hôm nay đã và đang tiếp bước cha anh, vượt qua khó khăn, tích cực học tập, lao động. Đời sống kinh tế ở Vĩnh Trinh có nhiều khởi sắc khi diện tích đất canh tác ngày càng mở rộng, từng bước cơ giới hóa, điện khí hóa vào sản xuất. Bức tranh tương lai của vùng đất lịch sử này vẫn đang hiện ra đầy sắc thắm.
