Nhà tôi ở lẫn trong một làng chài. Cha mẹ tôi thoát ly, làm cán bộ trên tỉnh nên đi về trong ngày. Cái thời kỳ tem phiếu muôn vàn chật vật, anh em tôi uống nước làng chài, ăn chực cơm cá làng chài mà lớn lên. Tôi nhớ. Cái mùi đặc trưng của làng tôi là mùi cá nướng và mùi đường ngào gừng để làm kẹo bột. Sáng tinh sương thuyền về, người người xuống bến gánh cá. Đến trưa nhà nào nhà nấy thơm phức mùi cá nướng. Nhà không có thuyền, có lưới thì làm nghề nấu kẹo. Là kẹo bột. Thứ kẹo được nấu bằng đường, hoặc mật mía, lẫn với gừng tươi. Nấu đến khi đường chín dẻo thì đợi nguội đập lại cho kỹ. Tôi đã được chứng kiến cảnh người ta đập kẹo vào cột nhà. Cái cột nhà đen bóng sạch sẽ. Phía trên cột đóng cái đinh to tướng. Những cuộn kẹo sẽ được đập qua đập lại trên chiếc đinh sáng bóng ấy cho thật nhuyễn rồi mới cắt nhỏ ra. Sau khi cắt, kẹo được lăn qua với bột. Là một thứ bột trắng, không biết đó là bột gì. Lúc ấy, tôi đã đoán bột chỉ để các viên kẹo không dính bết vào nhau và đến giờ tôi vẫn chỉ nghĩ được thế. Có thể vì thế, người dân quê tôi gọi đó là kẹo bột. (Có nơi gọi là kẹo củi, kẹo que...). Qua con nắng buổi trưa thơm mùi cá nướng là đến mùi kẹo bột thơm lừng náo nức. Anh em tôi trong ngõ nhìn ra thấp thỏm. Cha mẹ bận đi làm nên anh em bíu ríu nhau chờ tối. Đứa lớn trông đứa bé. Tôi chẳng phải trông em vì còn có anh chị. Sau những trò chơi mệt nghỉ với đám con nít trong xóm, tôi thẩn thơ nghĩ về đùm kẹo bột cha treo lủng lẳng trước xe mỗi chiều mà phấp phỏm đợi chờ.
Tôi theo học trường làng. Ngôi trường thấp lè tè ẩn sau cây vối. Bên kia là quán cóc cha tôi vẫn thường dừng xe mua kẹo cho chị em tôi. Đám bạn học là lũ trẻ làng chài suốt ngày quanh quẩn từ bến về nhà, từ nhà ra chợ, từ chợ về gốc vối. Mặt đứa nào đứa nấy thò lò mũi xanh quệt qua quệt lại nhem nhuốc. Ống áo rách tươm đến khuỷu. Quần cộc lên sát đầu gối, không sờn mông thì cũng đã vá ngược xuôi. Nhiều đứa tay còn tanh mùi cá tươi vì vừa đi hôi cá dưới nhà thuyền về. Nhiều đứa tóc ám mùi cá nướng vì phụ mẹ xếp cá vào rổ... Đứa nào cũng có việc. Xong việc thì đến trường. Được đôi đồng tiền lẻ mẹ cho thì chung nhau mua kẹo. Chiếc kẹo bột bằng đầu ngón tay mỗi đứa cắn một tí. Đứa nào tham lam cắn lẹm qua chỗ ngấn thì bị rủa ghê gớm, có khi còn bị nghỉ chơi một thời gian dài. Chẳng có sự trừng phạt nào nặng nề hơn phải lủi thủi một góc, bạn bè không cho ăn chung kẹo nên đứa nào cũng cố gắng cắn đúng phần mình. Có đứa đã nhai hết kẹo trong miệng rồi thấy ánh mắt thèm thuồng của bạn còn nhả kẹo ra chia. Miếng kẹo có lẫn mùi nước miếng của bạn còn rưng rức trong tim tôi mỗi lúc nhớ về.
Cũng có lúc, kẹo bột không là nỗi háo hức của chúng tôi. Đấy là những ngày áp Tết. Chợ quê cơ man nào là bánh kẹo. Là kẹo chanh Hải Hà. Là bánh quy Hương Thảo. Là mứt Tết Hà Nội… Những chiếc kẹo bọc giấy bóng lấp lánh mầu sắc. Những chiếc bánh quy đủ hình thù bắt mắt. Rồi mứt Tết đủ loại được nhuộm phẩm xanh đỏ tím vàng. Những chiếc kẹo bột nằm thu lu góc chợ ít người thăm hỏi. Mầu vàng chín của mật, của đường lẫn với màu trắng của bột bị chìm đi giữa bạt ngàn sắc mầu. Dành dụm cả năm tiêu ba ngày Tết. Các bà, các mẹ đi chợ hết chép miệng rồi thở dài cũng phải bấm bụng mua cho con bộ quần áo mới, đôi dép mới. Đặc biệt là không thể thiếu kẹo Tết. Lũ trẻ con mê mẩn với xanh đỏ tím vàng rồi quên luôn kẹo bột. Trong làng không còn thấy mùi kẹo chín ngào ngạt thơm như thúc giục nữa. Lẫn trong lãng đãng mưa phùn là mùi hương trầm thơm vương vít kéo cái Tết về gần. Kẹo bột yên lặng ở đâu đó, chờ ngày đám trẻ bớt xôn xao với Tết để bình yên trở về.
Tôi xa làng bao năm, mùi cá nướng đôi ba lần tôi còn được gặp lại nhưng mùi kẹo bột ngào đường thì chỉ còn trong tiềm thức. Chẳng còn ai nấu kẹo bột nữa. Những đứa trẻ bây giờ đã quá dư thừa của ngon vật lạ nên thờ ơ với cả các loại kẹo nội, kẹo ngoại. Kẹo bột chỉ còn luẩn quẩn trong tâm trí mỗi lần tôi quay quắt nhớ quê, nhớ tuổi thơ mình.
Tôi ngồi lâu bên bậc thềm. Bậc thềm vẫn còn nguyên những khối đá xanh. Những tảng đá vuông vắn khi tôi sinh ra đã thấy ở đó. Cha bảo là của các cụ để lại. Các cụ để lại cho ông bà, ông bà để lại cho cha mẹ tôi. Nhà tranh vách nứa, những tảng đá chỉ có thể làm vật kê, làm bậc thềm để bước lên bước xuống. Nhà tôi gần cửa sông. Mỗi bận lũ về là xơ xác. Lũ đi cuốn theo hết thảy chăn màn, giường chiếu, bát đũa đến cây cối, hoa màu... Làng chài sau lũ buồn co ro vì đói. Mùi cá nướng, mùi kẹo ngọt im lìm. Chỉ có tảng đá vẫn ở nguyên đấy, sáng xanh lên thách thức. Cha mẹ tôi khổ sở vì lũ lụt nên đành phải chuyển nhà. Tảng đá nặng quá, mang theo chưa biết sử dụng cho mục đích gì nên lần chuyển nhà ấy cha tôi để lại. Người chủ mới tiếp quản cũng để nguyên thế, chẳng buồn dời đi. Có thể, họ cũng chẳng biết sử dụng những tảng đá xanh ấy để làm gì. Trong làng chài ven sông, những tảng đá ấy bây giờ vẫn là vật để kê, vẫn dùng làm bậc thềm.
Khu vườn xưa không thay đổi nhiều. Gió từ cửa sông thổi về mặn mòi. Cây vối cổ thụ vẫn còn đứng đó, chẳng chịu lớn thêm. Mùi cá nướng than hoa thơm ngậy. Chỉ có mùi đường, mùi mật ngào gừng là vĩnh viễn không còn. Tôi ngơ ngác nhớ, lẫn trong gió sông, mùi của tuổi thơ hoang hoải tìm về.
Vùng đất Neverland chỉ có trong tiểu thuyết. Cậu bé Petter Pan cũng chỉ có một mà thôi. Chẳng ai dám từ chối trưởng thành nhưng ước mơ được trở về với tuổi thơ hồn nhiên, trong trẻo thì thường trực. Như ngay giờ đây, tôi ngồi giữa đất quê mà nhớ quê đau đáu. Trên bậc thềm đá xanh, tôi ngồi đong đếm mùi quê thương nhớ. Tôi nghe trong mùi cá nướng, mùi kẹo bột ngọt ngào, mùi của đói nghèo thơm thảo, tiếng đập kẹo rộn ràng, tiếng kéo lắt xắt, lắt xắt, tiếng cụ già lắc chiếc hộp nhựa lóc xóc đếm kẹo. Vẫn còn đó bạn tôi móc kẹo từ trong miệng ra chia, vẫn còn đó đôi tí kẹo sót lại trên chiếc đinh chủ nhà gỡ xuống chia cho lũ trẻ đang thèm thuồng nấp sau cánh cửa... Tôi rấm rứt nhớ. Tôi yếu đuối vịn vào. Lòng vẫn vẹn nguyên những náo nức run rẩy như lần đầu tiên đón bọc kẹo bột từ cha.
Tôi nghe trong mùi cá nướng, mùi kẹo bột ngọt ngào, mùi của đói nghèo thơm thảo, tiếng đập kẹo rộn ràng, tiếng kéo lắt xắt, lắt xắt, tiếng cụ già lắc chiếc hộp nhựa lóc xóc đếm kẹo.