Cửa biển chưa lặng sóng

Cái tin dự án Đầm thủy sản Duyên Hà tỉnh đã duyệt chính thức, được thông báo rộng rãi. Xã tổ chức họp dân các thôn để triển khai. Gia đình ông Quyển cũng có năm sào ở mé dưới diện tích dự án đó. Hôm nay đi họp thôn về, bà Thảo om om từ đầu ngõ: Ruộng thế mà người ta xếp hạng thùng đấu. Cải tạo công lênh hàng chục năm trời… cấy cói, rồi cấy lúa hai vụ hẳn hoi… Có phải hoang hóa năn cỏ gì đâu!...

Cửa biển chưa lặng sóng

Đang hí húi lau xe máy ở góc sân, ông Quyển hỏi ra: Thùng đấu à? Ruộng ấy kể lên loại ba thì phải!... Chứ sao nữa! Ông là chúa “việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng”, không ngó ngàng gì đến ruộng nương, đầm áng. Ruộng vào cái dự án này sẽ có giá, sẽ được hưởng đầu tư đủ thứ vốn liếng, giống má, kỹ thuật… Thì bà cứ bình tĩnh. Để tôi hỏi thằng Ngãi xem có giúp được gì không! Chí ít nó cũng là anh em với thằng Kim nhà mình… Bà Thảo được thể bám luôn: Kể nó phải biết ơn cái hồi ông giới thiệu, bảo vệ nó vào Đảng, rồi vận động bầu cử. Nói gì thì nói, thử hỏi không có ông thì sao nó chễm chệ thành chủ tịch xã rồi chủ tịch cái phường này được?

- Thư thả đã! Lòng tốt đừng có kể lể, mất cả thảo thơm… Tre già măng mọc! Đang cần lớp trẻ để kế tục lớp già chúng tôi. Không nói thì mọi người cũng rõ. Mình phải vì cái chung toàn diện chứ ai lại nghĩ cục bộ như bà!

- Ông chỉ mỗi khéo cái ný nuận!

- Tại bà! Bà có nhớ, tôi đã từng bảo với bà từ hồi chúng nó chưa vợ chưa con, hai thằng thân với nhau như anh em ruột thịt. Thằng Kim nhận nó là anh nhận. Mình cũng nhận phắt nó là con nhận đi cho nó vui, thêm người thêm tiếng… Đằng này bà cứ dúng dẳng những là “tốt với cha mẹ trước đã hẵng tốt với người ngoài”, những là “ôm rơm rặm bụng… Chúng bay thêm cha thêm mẹ, nhưng “sắm dễ lễ khó”, sau này khó ăn ở…” làm thằng bé mấy lần chưng hửng…

Nghe bà vợ nhắc đến Ngãi chủ tịch phường, lòng ông Quyển lại bâng lâng, dâng trào cảm xúc rối bời, khó tả về một thời xa lắc. Xa lắc nhưng lại như vừa mới đây thôi. Bốn chục năm, vèo cái, nó đã bằng ấy tuổi, bốn mươi. Tình thật mà nói nó là thằng có chí. Mẹ lẻ con côi, năm lên sáu tuổi, nó đã phải theo mẹ ra đồng mót lúa mót khoai, rồi vác cái cuốc bàn gỗ lim to hơn cái lưng, bì bõm từng nhát một trên sào ruộng. Lắm hôm Quyển đi làm thấy nó từ xa, xót lắm. Lúc gặp Ngà, mẹ thằng bé, Quyển chỉ kịp nói: Sao cô nỡ bắt thằng Ngãi làm non thế? Rõ khổ! Hãy để nó đi học! Ngà vội ngoắt mặt: Vâng! Cảm ơn! Không phải quan tâm! Tôi biết phận mẹ con tôi!

Lúc mới thành lập xã mới Duyên Hà, còn làm phó chủ nhiệm Hợp tác xã vận tải thuyền buồm Vân Cừ, nhiều lần Quyển đã cố thuyết phục chú Tuệ chủ nhiệm HTX thủ công nghiệp Hải Thịnh đưa mẹ con Ngà vào diện trợ cấp khó khăn, nhưng không được. Tuệ bảo: Chị ấy nhà cửa không đến nỗi nào. Một mình một mẫu cói, HTX em cũng đã mua cho một chiếc máy dệt chiếu. Mẹ con có việc làm đều đặn… Chẳng qua chị ấy tham việc, bắt trẻ con phải khổ! Nhưng… tớ thấy nó đơn côi, tội nghiệp thế nào ấy! Hay cậu linh động? Không được anh ạ. Xã viên nhiều người còn khổ gấp mười. Họ sẽ thắc mắc. Mang tiếng em ngay! Hay anh có ý gì với chị Ngà, nói thẳng một câu, em sẽ có cách? Cậu chỉ vớ vẩn. Thấy người ta côi cút thì động lòng chớ có gì đâu! Nhỏ cái miệng thôi! Này anh! Nhưng em thấy nó có vẻ giông giống anh? Ông Ngưng cũng bảo vậy! Quyển lườm cậu ta: Bép xép! Ở đời thiếu gì người giống nhau! Chớ có nghĩ bậy! Tớ không thích cậu đùa kiểu ấy!

Nhưng, khi thỉnh thoảng giáp mặt thằng bé ngang đường, chỗ khuất không thấy ai, Quyển lại nhanh như cắt nhét vào túi nó mấy chục đồng, rồi lúc cái bút, lúc quyển sách, có lần cái áo cộc tay... Thằng bé phuỗi ra. Nhưng anh lại dúi bằng được: Cầm lấy cháu! Đừng khoe đừng nói với ai!

***

Đêm. Ông Quyển trằn trọc giở mình. Tự nhiên đâm khó ngủ mới bực chứ! Cái bà này, ruộng nương, chỗ ấy có thiệt cấp một chút cũng thôi. Nhà mình có thiếu thốn gì đâu. Bọn trẻ mỗi đứa chỉ cho vài đồng là bà tiêu mệt nghỉ. Sao phải so bì tị nạnh cho khổ? Hay bà ấy thăm dò mình với mẹ con thằng Ngãi có vấn đề?…

Đến hồi cuối năm 1968… HTX vận tải thuyền buồm Vân Cừ, xã viên vẫn quanh năm sống trên những chiếc thuyền buồm lênh đênh sông biển. Hàng trăm chiếc thuyền vận tải lớn nhỏ những ngày nước kém về đậu dọc bờ Bến Ngự, Tranh Giang, chẳng khác gì một “Vương quốc thuyền buồm”. Nhìn cơ ngơi rải ran những con thuyền gỗ, những cánh buồm, các “thủ lĩnh” cầm đầu HTX vận tải đã bật ra suy nghĩ: Dân vận tải dưới sông cùng gia đình họ phải có đất, có ngôi làng chung, qui về một mối mới giữ vững và phát triển được ngành giao thông vận tải! Ý tưởng đó xuất hiện như một luồng gió mới. Sau nhiều cuộc khảo sát, cuối cùng họ đã tổ chức đi chọn đất, cho thuyền dừng lại ở khu Ba Gò, nơi cửa biển, hạ lưu Tranh Giang. Nơi đây, phía trước là vịnh Hạ Long đảo đá trập trùng xanh biếc. Phía sau là sông Bạch Đằng với những bãi triều mênh mông sú vẹt, ngọn sóng đánh trắng xóa vào tận bãi cát Yên Sa. Một phương án táo bạo trình lên huyện và tỉnh, được thông qua và bắt đầu mở màn. Công trường thành lập, huy động tất cả các phương tiện vận tải của Duyên Hà và hợp đồng ngoài vùng cùng dân công các làng xã trong huyện. Một chiếc xà lan và chiếc thuyền gỗ lớn được chọn giải bản làm “sở chỉ huy” và nhà hậu cần. Tất cả đưa ra neo đậu tại Ba Gò, khởi thủy cho một cuộc chinh phục.

Mờ sáng một ngày cuối đông, mực nước thủy triều hạ thấp nhất. Dòng sông chết lặng. Cũng là lúc những hòn đất, đá đầu tiên ném xuống, thách chiến với thủy thần. Hàng trăm chiếc thuyền buồm chở đầy vật liệu từ các ngả sông lao ra, tụ vào như những con ong bay đi bay lại trong rừng hoa. Hàng ngàn vai trần ghé xuống. Tiếng loa, tiếng trống, tiếng pháo cùng tiếng reo hò vang động một góc trời, chẳng khác gì một trận thủy chiến. Ông Quyển nhớ: Lúc đó ít nhất cũng hàng chục vạn khối đá chuyển từ núi đá Tràng Kênh, Hoàng Lỗ đổ xuống mới hình thành được cốt con đê nơi cửa biển phía đông huyện.

Cứ sau mười ngày lao động, Ban chỉ huy lại cho dân công tạm nghỉ hai ngày để lấy lại sức. Mọi người tranh thủ về các làng xã bên kia sông. Hôm ấy, công trường cũng vừa nghỉ. Trên xà lan “đại bản doanh” chỉ còn ông Ngưng Bí thư Đảng ủy kiêm Trưởng ban chỉ huy công trường, ông Mai Chủ nhiệm HTX Vân Cừ cùng Quyển ở lại. Trên con thuyền nhỏ đậu áp mạn đuôi xà lan còn cô Ngà cấp dưỡng. Ngà ở khu nhà bếp đặt cuối lái thuyền. Gọi là nhà bếp, thực ra chỉ là một ô sạp nhỏ chứa hai cái khuôn đặt chảo nấu cơm với mấy cái thúng đựng bát đĩa, mấy cái rổ rá đựng rau củ và đám chum vại đựng gạo, đựng nước ngọt… Bên quê, Quyển dân làng Đông, Ngà người làng Cốc. Hai người biết nhau khi công trường thành lập. Ban chỉ huy tập hợp những cán bộ xã viên do các đội vận tải cử lên, phân công họ vào các tiểu ban. Quyển phụ trách thường trực văn phòng là một ô buồng khá rộng dựng bằng gỗ tạp trên xà lan. Công việc hằng ngày, anh chuyên tập hợp các số liệu đất đá đổ xuống làm cốt đê của các đơn vị để báo cáo lên ban chỉ huy công trường. Ngà làm cấp dưỡng, phụ trách hai người, một cô gái mới lớn, một chị ngang tuổi Ngà chuyên chân tiếp phẩm.

Hằng ngày Ngà thường bắc thanh ván làm chiếc cầu bước sang chỗ Quyển nhờ tính toán các thứ. Quyển có khiếu tính nhẩm, làm sổ sách rất nhanh. Chẳng cần đặt bút, chỉ lập bập môi mấy cái, anh đã cộng trừ nhân chia xong hàng loạt số liệu, khiến Ngà cứ đứng ngẩn tò te: Tính gì mà nhanh thế anh? Thì cô cứ về thử lại đi. Sai anh đền! Khi thân nhau rồi, Ngà thường nắm một nắm cơm nhỏ gói bằng lá khoai sọ giấu trong hai cái bát úp lên nhau, đợi mọi người tạm nghỉ trưa mới lấy ra đặt vào tay Quyển: Anh ăn đi. Cắm cúi suốt ngày, ăn uống thất thường thế thì làm việc sao được? Ôi! Cảm ơn cô! Nhỡ ai trông thấy, họ cười chết! Ai cũng có phần thêm cả rồi. Chỉ còn anh! Ngà nói dối! Không, em nói thật mà!... Cầm nắm cơm nhỏ, bất chợt Quyển nhìn Ngà. Ngà quay lại bắt gặp ánh mắt Quyển, tự dưng mặt cô đỏ rựng lên. Hôm nay nom Ngà xinh đẹp đáo để! Quyển nghĩ. Khuôn mặt trái xoan rám nắng của Ngà ửng hồng, lặn đâu mất những vệt nắng gió táp vào. Thân hình Ngà lẳn trong bộ áo bà ba đen càng nổi lên nét duyên dáng, thuần hậu. Một ý nghĩ bột phát trong Quyển: Giá vợ mình cũng chắc khỏe, mịn màng như thế này, sẽ có cu tí từ lâu rồi! Nhai từng miếng cơm chậm rãi, lòng Quyển nhẹ nhẹ xốn xang. Ngà xấu hổ chạy ra khoang thuyền. Cô ngồi thừ một lúc mới tiếp tục nhúng rổ bát đĩa vào chậu nước.

Ngày nghỉ, sông nước vắng như sân khấu chèo vừa khép lại. Gió bấc giêng hai thổi vù vù đập sóng vào mạn thuyền oàm oạp. Nửa đêm, mưa rắc dày hạt, không gian càng lạnh. Cuộn trong chiếc chăn đơn, Quyển thiu thiu ngủ. Chợt ngoài khoang có tiếng gọi nhỏ: Anh Quyển! Anh Quyển ơi! Dậy bịt hộ em cái lỗ rò khoang lái chỗ nhà bếp mau. Nước chảy vào nhiều lắm… Quyển bật dậy: Sao? Thuyền bên cô rò à? Có thế mới gọi, chứ ai người ta rỗi hơi. Mau lên! Ông Mai nằm cuối góc buồng lái, thức giấc, giục nửa đùa nửa thật: Thì sang bịt cái lỗ cho cô ấy! Quyển miễn cưỡng theo Ngà. Gió rít mạnh quá, muốn đập anh trở lại.

Hai người chui xuống khoang. Chỗ khe hai con ván ghép nơi cuối lái thuyền, một mạch nước đang rỉ rả chảy vào. Ừ rò thật! Khéo chỉ một chốc nữa là đắm… Vậy mà định không sang, định để người ta chết nghỉm chắc? Ngà đấm vào lưng Quyển. Anh nhanh nhẹn lấy miếng giẻ đặt vào, rồi dùng con dao phay khía đi khía lại, nhét chặt: Đơn giản như ăn quà vặt mà phải gọi người ta! Đàn bà con gái biết làm sao mà nhét. Chỉ đàn ông mới biết nhét thôi chứ! Rõ… Hơi thở Ngà hổn hển ngay sau gáy Quyển. Ấm sực, rân rân. Lúc quay ra chui lên, bất ngờ một cơn gió thốc xuống, con thuyền va mạnh, đập vào thành xà lan, xô hai người dạt về một góc. Mất đà, cả thân hình Ngà đè lên Quyển. Ngà bất chừng ôm chặt lấy anh, ngã xuống vạt gỗ. Phựt! Một chiếc cúc bấm nơi cổ áo Ngà bật ra. Bầu ngực lồ lộ như hai trái lê mọng còn tươi mặt phấn áp chặt lên mặt Quyển, nóng hôi hổi… Ôi! Quyển đặt môi vào đó. Ngà lặng đi. Lần đầu tiên Ngà biết mùi đàn ông. Và cũng lần đầu tiên người đàn ông ấy ăn vụng vợ.

Chiến dịch vào những ngày gay go nhất. Con đê đã hình thành, chạy hai vệt dài như hai nửa vành cung, sắp bao quanh lấy những bãi rừng ngập mặn và bãi Cát An. Thủy triều lên, nó nằm mong manh, chênh vênh trên sông nước mênh mông. Sóng vỗ rào rạt muốn leo lên dải đất mới tươi rói. Chỉ còn một đoạn chục mét nữa là hai nửa cung sẽ khép kín thành một vành cung hoàn chỉnh. Sức nước lúc này rất mạnh muốn đẩy hai nửa vành cung ấy ra, nhấn chìm xuống dòng sâu. Ban chỉ huy họp mấy đêm liền, cuối cùng quyết định phải đánh đắm cả xà lan và con thuyền để làm cốt cho các cánh quân ồ ạt đổ đất đá xuống hợp long. Khi con đê hợp long cũng là lúc hai phương tiện nằm dưới đáy sông. Ai cũng tiếc ngẩn ngơ. Cũng là lúc những kỷ niệm, những nắm cơm, những bát nước vối cùng cái đêm hai người ngã vào nhau chìm vào thời gian…

Mùa xuân đã về. Vùng đất mới khai sinh trên cửa biển. Có đất, phải có người lập xóm, dựng làng. Các gia đình vận tải đặt những nền móng đầu tiên. Dân các xã bên kia sông cũng lần lượt chuyển sang. Nắng gắt, hơi chua mặn xông lên mờ mắt. Mưa, đất nhão lầy muốn vít chặt bàn chân. Mái nhà đu đưa trên biển nước. Hạnh phúc bắt đầu sinh sôi trong bình minh, hăng nồng gió muối. Con thuyền về có bến, như con chim bay có tổ. Trẻ con cất tiếng khóc chào đời. Trong những tiếng khóc chào đời đầu tiên ấy có tiếng khóc của thằng bé Ngãi. Khi có chửa, Ngà không nói cho Quyển biết. Cô lặng lẽ cố giấu cái bụng đang cựa quậy. Mỗi lần bắc chảo cơm lên kiềng xong, Ngà lại nhao ra ngoài, thở dốc. Căn bếp thêm tức ngực giữa bao la gió nắng cửa sông.

(Còn nữa)