Thảm cảnh đó đã được một số tác giả trong và ngoài nước ghi lại.
Một trong đó là những bức ảnh của cố nghệ sĩ nhiếp ảnh Võ An Ninh: vì đói người ta có thể nhai sống cả chuột; vì đói sọ người chất như núi ở nghĩa trang Hợp Thiện, Hà Nội...
Thư viện Viện Sử học Việt Nam còn lưu bức thư của Vét-xpi, một tác giả nước ngoài viết tháng 4-1945 tả về những đoàn người tha phương cầu thực: “Họ đi thành rặng dài bất tuyệt, người nào người ấy rúm người dưới sự nghèo khổ, toàn thân lõa lồ, gầy guộc giơ xương, ngay cả những thiếu nữ đến tuổi dậy thì đáng lẽ hết sức e thẹn cũng thế. Thỉnh thoảng họ dừng lại vuốt mắt cho một người đã ngã và không bao giờ dậy được nữa, hay để lột một miếng giẻ rách không biết gọi là gì cho đúng để che thân người đó. Nhìn những hình người xấu hơn con vật xấu nhất, nhìn thấy những xác chết nằm co quắp cạnh đường chỉ có vài nhành rơm vừa làm quần áo vừa làm vải liệm, người ta thật lấy làm xấu hổ cho cái kiếp con người”.
Công trình nghiên cứu của GS Văn Tạo và GS Furuta Moto người Nhật Bản cho biết: Nhật buộc Pháp ký một hiệp ước kinh tế, theo đó, từ ngày 6-5-1941 Pháp phải cung cấp lương thực ở Đông Dương cho Nhật hằng năm; mỗi năm từ 700 nghìn đến 1,3 triệu tấn, tương đương 50-80% tổng sản lượng lương thực Việt Nam có được thời đó. Mất mùa, thiên tai, ruộng lúa bị phá để trồng đay là những nguyên nhân khác của nạn đói 1945: Riêng tỉnh Thái Bình, nơi nạn đói diễn ra trầm trọng nhất, đã được Ban lịch sử tỉnh điều tra, con số tương đối sát thực tế là cả tỉnh chết đói 280 nghìn người. Chỉ tính số người chết đói ở Thái Bình cùng với Nam Định hơn 210 nghìn người, Ninh Bình 38 nghìn người, Hà Nam 50 nghìn người thì số người chết đói đã lên đến hơn 580 nghìn. Như vậy, con số hai triệu người Việt Nam chết đói trong 32 tỉnh cũ tính từ Quảng Trị trở ra và hai thành phố lớn Hà Nội, Hải Phòng là gần với sự thực.
Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Bình viết: “Nhiều làng xã chết 50-80% dân số, nhiều gia đình, dòng họ chết không còn ai. Làng Sơn Thọ, xã Thụy Anh (Thái Thụy, Thái Bình) có hơn 1.000 người thì chết đói mất 956 người. Chỉ trong năm tháng, số người chết đói toàn tỉnh lên đến 280 nghìn người, chiếm 25% dân số Thái Bình khi đó”.
Tháng 8 năm 2015, chúng tôi được cụ Hoàng Thị Sanh và cụ Hoàng Yển cùng sinh năm 1930, là chị em họ ở thôn Khánh Thượng, tổng An Lão, huyện Vũ Tiên (nay là Vũ Thư, Thái Bình), hai nhân chứng của nạn đói năm 1945, cho biết họ vẫn nhớ như in chuyện cũ. Cụ Sanh năm ấy 15 tuổi, đi ở đợ, kể: “Đình làng buổi tối vắng teo, sáng ra đầy những xác người ăn xin... Hàng xóm có bà Thịnh chuyên đỡ đẻ, nhà có tám người chỉ sót lại một người cháu gái, hiện còn sống ở xã Vũ Phúc. Nhà ông Hoán tám người, chết bảy, chỉ còn một người tên Doãn hiện ở Bắc Giang. Tôi sống được là nhờ ăn rau lang, rau má và cháo loãng”...
Ông Yển nhớ lại, trong xóm có bảy hộ, 45 người nhưng chết hết không còn một ai. Xóm bên cạnh có năm hộ, 36 người, chết 35, còn một người dạt về Hà Nội. Ông trưởng họ tôi là Hoàng Ngưu, có chín người con, chỉ sống sót một người con gái. Ruộng đất làng tôi hầu hết tập trung trong tay Tuần Tuân và Phán Chính, nên gặp đói hầu hết đều chịu chết. Các vùng khác cũng vậy, có khi còn thảm khốc hơn. Tôi hay theo mẹ đi chợ tỉnh, hằng ngày thấy những người tù kéo những xe đầy người chết về chôn chung trong một hố sau làng tôi, bây giờ nhớ lại còn rợn người. Mẹ tôi tháo vát, sản xuất giỏi nhất nhì làng Phúc Khánh cũng phải dốc hết ngô, đỗ, thóc giống ra ăn. Tưởng đói ngắn, qua được, không ngờ đói dài. Hết thóc giống, thì dỡ nhà bán, sau bán cả đồ thờ mà vẫn không đủ ăn; phải ra đồng kiếm rau khoai, rau mỏ sẻ... Không có cách mạng, chắc tôi không sống đến ngày nay. Không có cách mạng, không thể có cuộc sống no đủ ngày nay. Với chúng tôi không thể và không bao giờ quên ơn Bác Hồ, ơn Đảng...
Khi viết những câu thơ rùng rợn trong “Chiếc xe xác đi qua phường Dạ Lạc” (tức phố Khâm Thiên): “Ai vạc xương đổ sọ xuống lòng xe/ Chiếc quỷ xa qua bốn ngả ê chề...”, nhạc sĩ Văn Cao đang ở trong một căn gác hẹp tầng 2 số 45 Nguyễn Thượng Hiền (Hà Nội). Ông đã kể chuyện ra đời Tiến quân ca liên quan đến nạn đói:
“Tin từ Hải Phòng lên cho biết mẹ tôi, các em và các cháu tôi đang đói khổ. Bà đưa các đứa nhỏ ấy từ Nam Định ra Hải Phòng, dọc đường đã để lạc mất đứa cháu gái con anh cả tôi. Nó mới lên ba. Đôi mắt nó giống như mắt con mèo con. Có thể nó nằm ở dọc đường trong đám người chết đói năm ấy.
Chiều hôm ấy tôi đi dọc theo đường Phố Ga, đường Hàng Bông, đường Bờ Hồ theo thói quen, tôi cố tìm một cái gì để nói. Tìm một âm thanh đầu tiên. Những đường phố quen thuộc ấy thường không vang một âm thanh nào hơn những tiếng nghe buồn bã hàng ngày... Bên một gốc cây, bóng mấy người đói khổ trần truồng loang trên hồ lạnh. Họ đang đun một thứ gì trong một ống bơ sữa bò. Ngọn lửa tím sẫm bập bùng trong những hốc mắt. Có một đứa bé gái. Nó khoảng lên ba. Tôi ngờ ngợ như gặp lại cháu tôi. Đôi mắt nó giống như mắt mèo con. Cháu bé không có mảnh vải che thân. Nó ngồi ở xa nhìn mấy người lớn sưởi lửa. Hình như nó không phải là con cái số người đó. Hình như nó là đứa trẻ bị lạc, cũng không phải là cháu tôi. Nó đã chết thật rồi. Có thể nó đã nằm trong đám người chết đói dọc đường Nam Định - Hải Phòng. Tôi bỗng trào nước mắt, và quay đi.
Đêm ấy, về căn gác tôi đã viết được nét nhạc đầu tiên của bài Tiến quân ca.”
Đôi mắt của đứa trẻ lên ba, cháu của nhạc sĩ, và những đứa trẻ lên ba khác đang chết đói đã làm nên khúc hát vùng lên của Quốc ca nước Việt.
Jean-Paul Sartre (1905 -1980), người đoạt giải Nô-ben văn học năm 1964 có một câu nói nổi tiếng: “Trước một đứa trẻ đang đói, thì Buồn nôn (cuốn sách khởi đầu của chủ nghĩa hiện sinh) của tôi chẳng là cái thá gì”.
Nghệ thuật trước hết vì con người.
Chính trị chân chính càng vì con người. Phiên họp đầu tiên của Chính phủ cách mạng ngày 3-9-1945 đã thảo luận và tán thành sáu vấn đề cấp bách do Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra, trong đó, điều đầu tiên là “Phát động một chiến dịch tăng gia sản xuất” và “trong khi chờ đợi ngô, khoai và những thứ lương thực phụ khác, phải ba bốn tháng mới có, tôi đề nghị mở một cuộc lạc quyên. Mười ngày một lần, tất cả đồng bào chúng ta nhịn ăn một bữa. Gạo tiết kiệm được sẽ góp lại và phát cho người nghèo”.
Bản thân Bác ba ngày nhịn ăn một bữa và tự mình tăng gia sản xuất.

Cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp góp phần tăng năng suất, đời sống nông dân ấm no. Ảnh: NGỌC DIỆP
Không có cách mạng, không thể có cuộc sống no đủ ngày nay. Với chúng tôi không thể và không bao giờ quên ơn Bác Hồ, ơn Đảng... |
Khắp nơi nhà nhà tăng gia, người người tăng gia nhưng nạn đói, giặc đói vẫn chưa hết. Chiến tranh nối tiếp chiến tranh. Trai tráng phải ra trận. Hạt gạo làm ra phải chia ba, sẻ bảy. Cơ chế đôi khi chưa thích hợp làm kìm hãm sức sản xuất khiến nghèo đói tiếp tục đeo bám không chỉ những tháng ba ngày tám...
Ai ơi bưng bát cơm đầy... Cả dân tộc gồng mình. Những cánh đồng gồng mình. Đồng bằng sông Cửu Long, Đồng bằng sông Hồng trở thành chủ lực. Những Mường Than, Mường Thanh, và cả những cánh đồng miền trung đều là những vựa lúa nổi tiếng, đều dư thóc gạo xuất khẩu.
Những cánh đồng dồn điền đổi thửa phục vụ công tác quy hoạch nhằm tạo ra vùng sản xuất hàng hóa, thuận lợi cho chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi đã làm nên diện mạo mới cho xóm làng hôm nay.
70 năm, chặng đường độc lập, tự do của một dân tộc, một quốc gia cho phép người Việt hôm nay nhận thức rõ hơn về sự bất khuất, kiên cường của các thế hệ cha ông. Nhận thức rõ hơn về một thảm họa vẫn đang đeo đẳng loài người ở thời điểm Việt Nam đã thanh toán được nạn đói nhưng một phần ba số người trên thế giới vẫn trong cảnh đói nghèo. Và để hiểu hơn rằng, không có gì quý hơn giá trị của sự no đủ, hòa bình hôm nay mà chúng ta đang thụ hưởng.