Bác đầu xứ Tố

Sau lễ gắn biển Di tích cách mạng và kháng chiến tại địa điểm nhà văn sinh ra và lớn lên trên quê hương Lộc Hà, Mai Lâm, Ðông Anh ngày 16-5-2012 vừa qua, tôi may mắn gặp gỡ con gái Ngô Tất Tố, bà Ngô Thị Thanh Lịch và tiến sĩ Cao Ðắc Ðiểm, chồng bà, hiện ở khu nhà cao tầng Nam Trung Yên, Hà Nội. Và câu chuyện về nhà văn, nhà báo Ngô Tất Tố đã bắt đầu từ kho di sản quý giá mà Ngô Tất Tố  để lại cho hậu thế.
Bác đầu xứ Tố

1.  Ngô Tất Tố không chỉ sớm nổi tiếng trên văn đàn với các tác phẩm Tắt đèn, Việc làng, Lều chõng... và sáng lập nên dòng văn học hiện thực, mà còn sớm nổi tiếng trong làng báo nước ta ngay từ những năm 20 - 30 của thế kỷ XX với nhiều bút danh trên An Nam tạp chí, Tương lai, Ðông Pháp thời báo, Công dân, Thời vụ, Con ong, Hà Nội tân văn, Thần chung...

Bút lực dồi dào, thiên tư sáng láng, từ 1926 đến 1945, ông viết rất nhiều thể loại: tiểu phẩm, ký sự, phóng sự, ký chân dung, làm thơ, dịch thơ, bình thơ, truyện ngắn, truyện lịch sử, bút chiến, chính luận... với nhiều bút danh - Thiết Khẩu Nhi, Phó Chi, Thục Ðiểu, Thôn Dân, Lộc Ðình, Tuệ Nhỡn, Thuyết Hải, Xuân Trào, Ðạm Hiên, Kim Ngô, Cối Giang, Ngoan Tiên, Dân Chơi... Ðặc biệt, cách nay gần một thế kỷ, Ngô Tất Tố đã tung hoành với thể loại tản văn trên các mặt báo với cách đặt tên chuyên mục rất thú vị và thời sự như Chuyện giữa trời ở Thực nghiệp dân báo (1933); Nói mà chơi ở Báo Tương lai (1937); Gặp đâu nói đấy ở Báo Thời vụ (1938); Ném bùn sang ao ở Báo Con ong.

Cũng chính từ sự sôi động mạnh mẽ của làng báo trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ mà các nhà báo, trong đó có Ngô Tất Tố đã "dùng cán bút làm đòn xoay chế độ", vạch trần sự bóc lột tàn bạo của chế độ thực dân phong kiến ở nơi thôn quê với số phận khốn cùng của nông dân. Một ổ chó và một đứa con với bút danh Thôn Dân đã được đăng trên Báo Tương lai, là tiền thân của tác phẩm Tắt đèn xuất bản năm 1939. Vũ Trọng Phụng (1912-1939), người được giới báo chí tôn là "ông vua phóng sự" đã từng khen Tắt đèn là "một tiểu thuyết có luận đề xã hội hoàn toàn phụng sự dân quê, một áng văn có thể gọi là kiệt tác, tùng lai chưa từng thấy". Tắt đèn cùng các phóng sự - Lều chõng đăng trên Báo Thời vụ năm 1939; Tập án cái đình đăng Báo Con ong (1939-1940); Việc làng đăng Báo Hà Nội tân văn (1940) đã đưa tên tuổi Ngô Tất Tố lên hàng đầu các nhà văn dòng văn hiện thực của nước ta trước cách mạng Tháng Tám.

2. Cách mạng Tháng Tám đã thổi một luồng gió mới vào tâm trí các nhà văn, nhà báo Thủ đô Hà Nội. Ngô Tất Tố hứng khởi dịch thuật một loạt các tác phẩm trong năm 1946: Suối thép (tiểu thuyết); Trước lửa chiến đấu (truyện vừa); Trời hửng; Duyên máu (truyện ngắn)...

Với tầm hiểu biết sâu rộng về sử cận đại, Ngô Tất Tố đã viết loạt sách về một số vấn đề của lịch sử trong những giai đoạn bi thương của dân tộc như Gia đình Tổng trấn Tả quân Lê Văn Duyệt (Tiểu thuyết lịch sử 1937), Những trận đổ máu hồi người Pháp mới sang nước ta đến ngày nay (Tiểu thuyết lịch sử 1935), Vua Hàm Nghi với việc kinh thành thất thủ (Tiểu thuyết lịch sử, 1935); Ðề Thám (truyện ký lịch sử, viết chung, 1935), dịch Hoàng Lê nhất thống chí (năm 1942). Ngoài ra, ông còn  sáng  tác  kịch  bản chèo  Nữ chiến sĩ Bùi Thị Phác (1951), các bài báo và truyện ngắn đăng trên Báo Cứu quốc: Quà Tết bộ đội, Buổi chợ Trung du, Gửi bạn, Anh Lộc...

Một điều thú vị và bất ngờ đối với hậu thế khi đọc di sản của ông chính là các công trình nghiên cứu Nho học, nổi tiếng nhất là các tiểu phẩm Phê bình Nho giáo của Trần Trọng Kim (1938); Mặc Tử (1942), Lão Tử (biên soạn chung, 1942), dịch và chú giải Kinh Dịch (1943).

3.  Trên con đường thẳng mấy chục năm hết lòng vì nước vì dân, nhà báo, nhà văn Ngô Tất Tố đã gia nhập Ðảng Cộng sản Ðông Dương năm 1948. Ông mất ngày 20-4-1954 với tư cách một chiến sĩ trên mặt trận văn hóa trong công cuộc kháng chiến của dân tộc, tại ấp Cầu Ðen, nơi các đồng nghiệp thường xuyên lui về đây hội họp trong không khí đầm ấm của đại gia đình văn hóa - văn nghệ kháng chiến, trong đó có cả gia đình nhà văn Nguyên Hồng. Năm 1962, Ngô Tất Tố được truy tặng Huân chương kháng chiến hạng Nhất. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt đầu tiên.

Với 30 bút danh trên hơn 30 tờ báo và tạp chí, đăng gần 1.500 di tác với nhiều thể loại đa dạng phong phú, các tác phẩm của Ngô Tất Tố để lại, đến nay, đã được sưu tầm, tập hợp trong những bộ sách quý: Ngô Tất Tố - Toàn tập (5 tập, Nhà xuất bản Văn học, 1996). Ấy là toàn tập này còn để ngoài hơn 1.000 di tác của tác giả. Gần đây đã có những ấn phẩm công bố một cách hệ thống, toàn diện và đầy đủ về cuộc đời và sự nghiệp của tác giả như: Tổng thư mục Ngô Tất Tố (Nxb Thông tin và Truyền thông, 2010); Tổng tập tản văn Ngô Tất Tố (Nxb Thông tin và Truyền thông, 2011); Ngô Tất Tố - Nghiệp văn nghề báo (Nxb Kim Ðồng, 2009).

Năm tháng qua đi, dòng sông lịch sử và nhân chứng không ngừng trôi,  nhưng sự nghiệp báo chí và văn học mà Ngô Tất Tố để lại cho hậu thế còn mãi với thời gian. Giải thưởng báo chí Ngô Tất Tố của Hà Nội là một niềm vinh hạnh đối với các nhà báo trẻ phấn đấu cho nghiệp báo. Nhưng tôi vẫn muốn gọi nhà báo nhà văn nổi tiếng bằng cái tên gần gũi: Bác đầu xứ Tố.