Vững vàng trên chiếc “phao” công nghệ

Việt Nam là quốc gia thường xuyên chịu tác động của nhiều loại thiên tai cực đoan. Do đó, ứng dụng khoa học-công nghệ, từ lắp đặt các cảm biến đo lường hiện đại cho tới sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) để phân tích dữ liệu..., sẽ góp phần hoàn thiện hệ thống cảnh báo thiên tai, góp phần bảo đảm an toàn cho người dân, cũng như hạn chế thiệt hại về kinh tế-xã hội.
Quan trắc viên lấy thông tin số liệu đo đạc từ trạm khí tượng. Ảnh: Quang Vũ
Quan trắc viên lấy thông tin số liệu đo đạc từ trạm khí tượng. Ảnh: Quang Vũ

Theo báo cáo về thiệt hại và tác động của bão số 3 (bão Yagi) đến phát triển kinh tế-xã hội của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, khoảng 282.000 căn nhà, 3.755 trường học, điểm trường bị hư hỏng, bị ngập, vùi lấp do sạt lở đất. Nông nghiệp thiệt hại khoảng 285.000 ha lúa, hoa màu, cây ăn quả bị ngập úng, hư hại; 189.982 ha rừng; 11.832 lồng bè nuôi trồng thủy sản bị hư hỏng, cuốn trôi; khoảng 5,6 triệu con gia súc, gia cầm bị chết. Tổng thiệt hại kinh tế ước tính sơ bộ chưa đầy đủ là hơn 81.000 tỷ đồng, tương đương gần 3,3 tỷ USD.

“Các cơn bão chưa có dấu hiệu tăng lên về tần suất, nhưng rõ ràng là bão mạnh tăng lên trong thời gian gần đây. Không chỉ có bão mạnh, biến đổi khí hậu cũng gây ra hiện tượng mưa lớn cực đoan trong thời gian ngắn, ảnh hưởng tới đời sống của người dân trên cả nước”, Phó Tổng Cục trưởng Khí tượng thủy văn Hoàng Đức Cường phát biểu tại Tọa đàm “Thích ứng với thiên tai ngày càng dị thường, khốc liệt”.

Sau bão Yagi, lượng mưa đo được trong ba ngày ở Quảng Ninh lên tới gần 2.000 mm. Có thời điểm, mưa cực đoan tới 500 mm chỉ trong sáu giờ ở miền trung. Những hiện tượng thời tiết bất thường đã tạo nên nhiều hệ lụy khủng khiếp, như lũ quét và sạt lở đất ở vùng núi, hay ngập lụt ở vùng trũng thấp và các đô thị ven biển.

Trước thực tế khắc nghiệt của biến đổi khí hậu, dự báo và cảnh báo sớm là khâu quan trọng để giảm thiệt hại do thiên tai gây ra. Song, cần nhìn nhận hạn chế thấy rõ là hệ thống quan trắc khí tượng thủy văn ở nước ta chưa được phủ kín và tỷ lệ tự động hóa chưa cao.

Nhiều vùng núi, hải đảo và các khu vực nông thôn vẫn thiếu các trạm quan trắc tự động, dẫn đến việc thu thập dữ liệu chậm trễ và không đầy đủ. Ngay cả đối với nhóm các trạm tự động, phần lớn mới chỉ tự động một phần, chưa thể giao tiếp hai chiều để phục vụ điều khiển, vận hành và giao tiếp với toàn bộ hệ thống.

Bên cạnh đó, khả năng truyền đạt thông tin cảnh báo đến người dân cũng còn nhiều bất cập. Mặc dù các cơ quan chức năng đã đa dạng hóa các kênh thông tin như truyền hình, radio, mạng xã hội, nhưng việc tiếp cận đến các đối tượng dễ bị tổn thương như người già, người dân vùng sâu, vùng xa vẫn còn hạn chế.

Trong các tình huống khẩn cấp, truyền tải thông tin một cách nhanh chóng, chính xác và dễ hiểu vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, mỗi người dân cũng cần nhận thức rõ tầm quan trọng của việc phòng chống thiên tai, thay vì chỉ theo dõi bản tin dự báo ban đầu mà không liên tục cập nhật tình hình diễn biến và những thay đổi mới nhất.

Nhận thức rõ trọng trách của mình, ngành Khí tượng Thủy văn đã đặt mục tiêu: đến năm 2030, phát triển đạt trình độ khoa học và công nghệ tiên tiến của khu vực châu Á. Trong đó, nâng tổng số trạm quan trắc tự động trên toàn mạng lưới đạt 95% đối với các trạm khí tượng, đo mực nước, đo mưa, đo gió trên cao và tối thiểu 40% đối với các trạm đo lưu lượng nước. Nghiên cứu áp dụng công nghệ quan trắc từ xa bằng vệ tinh, camera, viễn thám, vạn vật kết nối, trí tuệ nhân tạo trong hoạt động quan trắc phục vụ giám sát, dự báo trên diện rộng.

Như chia sẻ của ông Hoàng Đức Cường, ngành khí tượng sẽ tăng mật độ các trạm quan trắc, nhất là ở những vùng núi thường xuyên xảy ra thiên tai để có dữ liệu dự báo, cảnh báo. Tăng cường hệ thống công nghệ cảnh báo sớm, phát triển mô hình hiện đại, công nghệ số, cảnh báo thông tin từ thiên tai, tự nhiên. Xu thế tất yếu là ứng dụng công nghệ, đặc biệt là AI trong loại hình cảnh báo sớm. Việc sử dụng cùng lúc các sản phẩm khác nhau giúp đưa ra được thông tin dự báo tin cậy nhất.

Nhìn vào sự nhất trí trên dưới đồng lòng, quá trình phối hợp của các cơ quan chức năng một cách thông suốt đã giúp cho những quyết định và các phương án xử lý trước tình hình thiên tai cực đoan ngày càng hợp lý và hiệu quả. Dẫu vậy, Việt Nam cần nhanh chóng xây dựng hệ thống thông tin chung, nhằm chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan như khí tượng thủy văn, thủy lợi, phòng chống thiên tai sẽ giúp tăng cường khả năng phối hợp và ứng phó với các tình huống khẩn cấp.

Bên cạnh đó, nâng cao nhận thức của cộng đồng về phòng chống thiên tai cũng là nhiệm vụ quan trọng. Chúng ta cần tận dụng thế mạnh của các ứng dụng trên điện thoại di động, mạng xã hội để tiếp cận người dân một cách nhanh chóng. Đặc biệt, việc xây dựng các ứng dụng cảnh báo sớm sẽ giúp người dân nhận được thông tin cảnh báo kịp thời mọi lúc mọi nơi. Cuối cùng, những nỗ lực hợp tác quốc tế cũng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng lực phòng chống thiên tai của Việt Nam. Việc tham gia các dự án nhằm chia sẻ kinh nghiệm với các quốc gia khác sẽ giúp chúng ta nhanh chóng tiếp cận công nghệ và kỹ thuật tiên tiến trên thế giới.

Bất chấp những nỗ lực ứng dụng hệ thống thông tin cảnh báo theo thời gian thực hay việc tăng cường đầu tư khoa học công nghệ, các nước trên thế giới cũng rất khó dự báo chính xác lũ quét hay sạt lở đất. Do đó, chính quyền, người dân và cộng đồng ở những khu vực nguy hiểm cần phải theo dõi thông tin liên tục, phối hợp rà soát các nguy cơ tiềm ẩn để chủ động phòng ngừa và ứng phó trước khi thiên tai xảy ra.