Sáng tạo độc đáo
Một đêm tham gia quăng chài cùng nhóm thanh niên xã Châu Đình (Quỳ Hợp - Nghệ An) trên sông Nậm Trọng, tôi thật sự ấn tượng bởi những chiếc cọn nước. Trăng lếnh loáng mặt sông, cọn nước cứ miệt mài quay như chẳng bao giờ biết mỏi, múc nước và cả ánh trăng dẫn lên đồng ruộng. Quá nửa đêm, mọi người cùng nhóm củi, nướng cá ăn trên bãi cát ven sông. Bên cạnh, chiếc cọn như người nghệ sĩ ngân lên bản tình ca mang hồn sông, hồn núi và hồn cây. Để thỏa tò mò, sáng sau, anh Lô Văn Long dẫn tôi đi ngắm lại con sông, nắng ban mai chiếu rọi làm những chiếc cọn nước rõ hình hài, như chiếc bánh xe khổng lồ, cần mẫn làm nhiệm vụ. Cả một khúc sông dài, hàng chục chiếc cọn nước nối nhau, âm thanh guồng quay lẫn tiếng nước chảy khiến vạt rừng trở nên đẹp và sinh động hơn. Anh Long cho hay: "Cọn nước đúng là một sản phẩm sáng tạo trong nông nghiệp của cha ông. Nếu không có nó thì đồng ruộng bị hạn, mà sức người không thể tưới, dùng máy bơm cũng không xuể và còn rất tốn kém".
Vậy cọn nước ở xã Châu Đình, rộng hơn là huyện Quỳ Hợp ra đời từ bao giờ? Với mong muốn tìm ra lời giải đáp, tôi đến tìm cụ Lô Văn Sáng (anh Long gọi bằng ông). Cụ Sáng không chỉ nói về sự kỳ diệu cũng như tầm quan trọng của chiếc cọn, mà cụ chia sẻ thêm về những nét văn hóa độc đáo gắn với công việc sản xuất nông nghiệp của người Thái. May hơn, cụ hào hứng kể lại câu chuyện cách đây gần 600 năm, trong vùng có người con gái đẹp là Nàng Tóc Thơm trở thành vợ của một vị tướng tài trong nghĩa quân Lam Sơn. Nàng chẳng những đẹp người, đẹp nết mà còn hay lam hay làm. Giặc giã hoành hành, nàng và bà con trong vùng hết lòng trồng rau, cấy lúa, góp lương thực nuôi quân đánh giặc. Năm đó, lúa bị hạn, nguy cơ mất mùa cao, Nàng Tóc Thơm đã cùng các bô lão trong bản tìm cách cứu lúa. Chiếc cọn nước làm bằng tre, vầu và gỗ ra đời sau nhiều đêm ngày miệt mài nghiên cứu. Từ đó chiếc cọn nước đã trở thành nông cụ không thể thiếu của người dân, góp phần tăng năng suất lao động. Ngày nay, bà con vùng Quỳ Hợp và cả khu vực miền Tây Nghệ An vẫn chế tạo và sử dụng nông cụ này.
Yêu quê và tự hào về việc cháu con còn nắm được rõ kỹ thuật làm cọn, cụ Lô Văn Sáng tâm sự: "Chúng tôi ngày nay cứ bắt chước các cụ ngày trước thôi. Nguyên vật liệu thì sẵn có trong rừng. Trước tiên là một thanh gỗ thẳng làm trục cọn, sau đó là chọn những cây vầu chẻ ra làm nang cọn. Tùy vào nhu cầu sử dụng mà làm cọn to hay nhỏ, mà lấy độ dài ngắn của nang. Trung bình, mỗi chiếc cọn có khoảng 40 nang".
Hỏi chuyện, cụ Sáng nói thêm, nguyên liệu chỉ là những thứ thô sơ, điều đó càng đòi hỏi công việc làm cọn đòi hỏi sự tỉ mỉ, tính toán cân đối sao cho cọn phải thật tròn để bảo đảm quay cho đều. Qua nhiều năm, người dân đã đúc rút được kinh nghiệm, sử dụng gỗ đã khô làm cánh quạt và trục cọn. Nhờ thế cọn nhẹ mà chắc, to mà cân đối và dễ vận chuyển. Việc làm này mang tính chất kế thừa, có cải tiến theo thời gian. Người dân ngày càng tìm ra phương cách để một chiếc cọn không chỉ dùng lấy nước, mà còn mang yếu tố thẩm mỹ, phục vụ cho nhu cầu du lịch ở địa phương.
Trong trẻo và trữ tình
Theo câu thơ "Mái gianh khô đợi con mưa rừng gội/Cọn nước quay từ độ ấy trăng rằm/Cứ mộc thế - chân trần - làn mây mặt suối/Thon thả môi cười, cánh hoa trắng ngoài kia" của Đinh Đăng Lượng, tôi hăm hở đi tìm "Cọn nước quay từ độ ấy trăng rằm"... Những miền quê đầy nắng, gió nhưng cũng gợi lên biết bao mến yêu từ chính những phong cảnh còn hoang sơ. Huyện Quỳ Châu có nhiều suối, sông như mọc ra từ núi rừng, dẫn xuống thung lũng và uốn lượn bên những thửa ruộng. Đặc biệt, xã Châu Tiến có Hang Bua nổi tiếng, đây cũng là địa phương hằng năm diễn ra cuộc thi người đẹp Hang Bua và đã chọn được biết bao cô gái đẹp người, đẹp nết. Phụ nữ Quỳ Châu da trắng, mắt đen, to. Hình ảnh tuyệt đẹp mà nhóm "phượt thủ" chúng tôi thường thấy, chính là những thiếu nữ tuổi mười tám đôi mươi với chiếc áo coóng đặc trưng của người Thái, e ấp đứng khỏa chân bên chiếc cọn nước. Ai cũng thốt lên rằng, đó là vẻ đẹp trong trẻo và trữ tình. Bên chiếc cọn nước, bao lời hẹn ước lứa đôi vang lên, được đệm mát bằng khúc hát của nước, ập òa sóng sánh, để tuổi trẻ yêu nhau thành vợ, thành chồng.
... đa sắc. Ảnh: CẢNH HÙNG
Rong ruổi khắp các bản làng của huyện Quỳ Châu, Con Cuông, Tương Dương... Nơi đâu cảnh sắc cũng cứ thắm lên mầu dân dã, quyện vào đời sống người dân. Dẫu biết, tất thẩy sẽ được ghi lại hình ảnh bằng việc chụp hết công suất, nhưng không thỏa bằng con mắt cứ si mê và khám phá. Cảm như đang chạm vào cuộc sống gần gũi với thiên nhiên nhất, giản dị và bình yên nhất. Những hình ảnh thân thương này tôi đã trải nghiệm nơi núi rừng các tỉnh Tây Bắc nước ta. Giờ, nơi miền Tây xứ Nghệ, cũng là chiếc cọn nước gần giống như thế, vẫn được đặt nơi suối sông, nhưng sự trải nghiệm đã khác, dường như được kết tụ bởi nhiều vẻ đẹp, được cảm nghiệm qua nhiều hành trình dài. Phải chăng, âm giọng con người nơi đây có điều gì tha thiết, ngào ngọt hơn, nên giọng ca của cọn, và sự phong rêu của những nan tre vầu cũng khác?
Bất giác, tôi như bị thôi miên bởi quy tắc hoạt động có vẻ giản đơn mà chứa đựng bao tìm tòi trở trăn và gửi gắm ước vọng đổi đời của cha ông trên bước đường chinh phục thiên nhiên và lao động sản xuất. Việc dẫn nước thật tài tình. Những ống bương được buộc nối bằng sợi dây mây với vành cọn, để cùng một vòng quay, ống bương chúc đầu xuống vốc từng "mẻ nước", nhấc lên, đổ vào chiếc máng cao chờ sẵn. Từ chiếc máng đó, nước dẫn vào chiếc máng đặt thấp hơn, đưa về đồng. Có khi nước được dẫn về tận bên hiên nhà sàn, để phục vụ cho sinh hoạt của cả gia đình, lối xóm.
Càng tìm hiểu, bụng tôi càng sáng ra. Bộ ba gồm nhà sàn, cọn nước và thổ cẩm, không chỉ là sắc mầu văn hóa, mà còn là ba thực thể đã ăn sâu vào tiềm thức người Thái ở Nghệ An, và theo thời gian càng trở nên bền chặt. Nhà nghiên cứu văn hóa Sầm Văn Bình đồng cảm và chia sẻ, thậm chí cọn nước quan trọng đến nỗi có người còn đặt tên cho nó. Hoặc lấy tên con suối, sông, hoặc tên của chính người quyết định làm ra nó. Anh bạn nhà thơ người Thái ở Con Cuông, xa quê nhiều năm, nay trở về với cọn, như được thỏa mát tấm lòng nhớ quê. Hình như ở khúc sông, con suối nào, nơi có chiếc cọn cần mẫn quay đều, anh cũng thấy hình ảnh tuổi thơ của mình hiện về, rõ nét.
Trong nhóm em bé nô đùa, tắm trong màn nước mát mùa hè kia, anh thấy bóng dáng một thời với nhóm bạn cùng trang lứa. Giọng anh hơi nghẹn lại. Anh tâm sự, khi lớn lên, là một chàng thanh niên, anh đã học cách để biến những cành cây thô ráp thành chiếc cọn nhỏ duyên dáng. Bè bạn anh khi đó cũng học làm. Nhưng họ ở lại với ruộng đồng, với thung lũng, những quanh co sông suối. Họ lấy vợ lấy chồng. Còn anh đi xa. Mẹ anh gửi gắm nơi anh giấc mơ trên phố, bà ở lại ấp ủ tin yêu bằng việc dệt sợi, nhuộm chàm. Có lần về thăm mẹ, thăm chiếc cọn ngoài suối, những vòng quay cọn mải miết, như vòng ô xoay tròn kín đáo che mặt của cô người yêu lần đầu gặp anh. Suốt bao tháng năm, cọn nước vẫn nhẫn nại, ngân lên tiếng chờ tiếng đợi. Anh không thể về, còn cô đi lấy chồng. Cô chịu khó, sống cần mẫn, nhọc nhằn như cọn nước. Từ đó, anh quyết tâm sẽ đi khắp các nẻo đường xứ sở, ghi lại vẻ đẹp bình dị của những chiếc cọn, làm kho tàng cho mình...
Những câu chuyện về vẻ đẹp của những chiếc cọn còn được người dân kể cho nhau bên bếp lửa thấm đượm. Và họ sẽ vẫn tiếp tục gìn giữ vẻ đẹp ấy, như là cách lan tỏa đời sống tinh thần, dù nghèo về vật chất nhưng sống với nhau chan hòa yêu thương. Vài năm trở lại đây, một số nơi đã xây dựng kênh mương bê-tông cốt thép. Song không vì thế mà cọn nước bị lép vế. Bà con người Nghệ An vẫn sử dụng chiếc cọn thô sơ làm công cụ bảo đảm tưới tiêu cho mùa màng. Những ngày này, thời tiết nắng nóng, thì cọn là người bạn đồng hành làm mát đồng, ruộng, mát lòng người bằng nguồn nước mà nó cần mẫn miệt mài quay đều.