Chỉ thế là đủ, tôi quấn lấy ông suốt buổi, vì cái bài này hầu như ngày nào tôi cũng nghe, không trên radio thì trong các cuộc nhậu, các cuộc họp và cả... đám cưới. Ông thì lại cũng thích tôi khi nghe tôi giới thiệu từ Pleiku xuống, và biết chút chút chuyện Tây Nguyên.
Tất nhiên là ông hát, hát cái bài ai cũng có thể hát được nhưng hát hay được là rất khó ấy. “Chim kơtia bay tới/ nghiêng cánh chào Đăk Rông/ Pơ lang khoe sắc thắm/ gió đưa hương đôi bờ... Tây Nguyên ta uống nước một nguồn nước cách mạng... Đăk Rông ơi, Tây Nguyên ơi/ Tôi hát cho dòng sông Đăk Rông mãi chảy xiết/ Tôi hát cho nhà rông đêm ngày luôn đỏ lửa, cho tiếng đàn ngân vang, vang điệu cùng dòng suối...”- cả bàn vỗ tay theo rầm rập.
Anh hùng A Sanh (người thứ ba, từ phải sang) gặp gỡ tác giả (bên trái A Sanh) tại nhà của mình.Ảnh: Lê Bá Dương
Ông hát rất hay. Tôi chơi và quen với nhiều nhạc sĩ, nhưng nhạc sĩ hát hay được rất ít. Ông hát cuồn cuộn như sông, nhưng cũng bảng lảng như k’tia, thiết tha như mùa xuân đậu vai áo cô gái Trường Sơn và cũng sâu lắng như tình yêu cách mạng...
Ông Tố Hải kể, ông ấp ủ bài hát lâu lắm, từ Mậu Thân 1968, nhưng phải đến đầu năm 1975, khi đang ở... Hà Nội, nghe tin Quảng Trị giải phóng thì ông mới bật ra hoàn chỉnh bài hát, và nó nổi danh từ bấy tới giờ. Nhiều bài hát có những số phận kỳ lạ, từng rất nổi tiếng, rồi chìm lỉm đi đâu đấy. Bài này, cho tới giờ, đi dự đám cưới, tôi vẫn thấy nhiều người hát, dù nó đòi hỏi giọng hát phải mang tính chuyên nghiệp cao, tóm lại là khó hát.
Và ông Tố Hải cũng bảo, nó không chỉ là Đăk Rông Quảng Trị. Mà nó là các con sông Tây Nguyên. Cho nên, giai điệu, hình ảnh trong bài hát là Tây Nguyên, một Tây Nguyên rất đặc trưng và dễ nhận biết. Một Tây Nguyên khiến rất nhiều người chưa từng biết Tây Nguyên vẫn có thể hình dung ra mồn một. Giai điệu Tây Nguyên và hình ảnh lại càng Tây Nguyên, với những nhà rông, lửa, chim k’tia, cây k’nia... Điều nữa là, nó hết sức nhuần nhuyễn, gắn kết với nhạc chứ không như các bài hát địa phương ca khác, liệt kê địa danh, sản vật vào cho nó ra địa phương nhưng cứ lổn nhổn như... răng khểnh cả hàm.
Tây Nguyên có những dòng sông nổi tiếng như hệ thống Sê San, sông Ba, Krông Nô, Krông Na..., có những con sông như một bài thơ viền quanh đô thị như sông Đăk Bla với thành phố Kon Tum, sông này có một đặc trưng rất lạ nữa là, nếu như các con sông Việt Nam khác đều chảy xuôi, từ bắc vào nam, từ tây xuống đông, thì nó lại chảy ngược, từ Tây Nguyên chảy ngược Trường Sơn. Con sông này dài 139 km, bắt nguồn từ chân núi Ngọc Linh ở huyện Tu Mơ Rông, Kon Tum, xuôi theo hướng tây đông, khi đến huyện Kon Rẫy, sông lại ngoặt về hướng bắc nam và đến thành phố Kon Tum thì nó lại ngoặt hướng đông tây. Con sông Ba cũng chảy ngược khi nó vòng qua thị xã An Khê, Gia Lai, uốn lượn để qua thị xã Ayun Pa, rồi mới chịu xuống Tuy Hòa để nhập vào sông Đà Rằng.
Nhắc đến những dòng sông Tây Nguyên, hẳn sẽ nhiều người nhớ đến sông Pô Kô với người lái đò “huyền thoại” A Sanh. Tôi là một trong những nhà báo đầu tiên “phát hiện” ra ông A Sanh, bởi khi chúng tôi gặp, ông tên là... Puih San kia.
Trên dòng sông Pô Kô qua đất Ia Grai của tỉnh Gia Lai thời ấy có ba bến đò, hồi ấy gọi là phà, là phà 6, phà 8 và phà 10. Phà 6 và 10 đã chìm theo thủy điện Sê San rồi, giờ chỉ còn phà 8. Người Gia Rai vùng này có nghề đẽo thuyền độc mộc từ cây rừng, bơi lặn rất giỏi và đánh cá cũng cừ. Tiểu đội chèo thuyền độc mộc đưa bộ đội sang sông, phục vụ quân đội được tuyển từ những chàng trai người Gia Rai ưu tú nhất, Puih San là một trong những chàng trai ưu tú ấy…
Khi tôi đến lần đầu thì thấy con sông Pô Kô qua đoạn này rất nhỏ, nước xanh biếc, lững lờ chảy. Nói chuyện qua sự phiên dịch của chị Cải, người đàn bà đã đi qua chiến tranh, nói tiếng Gia Rai như người Gia Rai dù chị là người Kinh thứ thiệt, chúng tôi biết Puih San và tiểu đội của ông đã có ba nghìn đêm không ngủ để đưa bộ đội và vũ khí các loại qua sông. Ba nghìn đêm, các chàng trai Gia Rai này đã bảo đảm giao thông thông suốt, đưa hàng nghìn bộ đội qua sông, hàng vạn tấn vũ khí vào chiến trường, và cũng như thế, đưa các thương binh trở ra. Có những lúc dòng sông hung dữ cuộn lên, đục ngầu mầu đỏ của bụi ba-zan và cả máu…
Đêm ấy, thương binh về nhiều. Hai bộ đội cáng một thương binh. Con thuyền độc mộc của ông đã có gần mười cái võng xuống, tức là đã gần ba chục con người, trong khi thuyền ông chở hết cỡ cũng chỉ không quá mười lăm người. Ai cũng vội sang sông nên không ai chịu xuống chờ chuyến sau. Đã có to tiếng xảy ra. Ông lên bờ ngồi khóc vì bất lực, nhưng rồi thương binh vẫn về, máy bay thì quần đảo. Thế là ông tặc lưỡi. Ra đến giữa sông, một loạt bom phía thượng nguồn. Hơi bom khiến thuyền lật. Tối mò mò. La hét thất thanh một hồi rồi tất cả im lặng, im đến rợn người. Tối đen, bóng tối như có thể thò tay bốc được từng mảng. Tay ông vẫn cầm mái chèo. Sức ông chỉ mấy sải là đã tới bờ. Một số bộ đội khỏe mạnh cũng bơi được, nhưng thương binh phần lớn là chìm hết. Tối quá, không thể thấy ai để cứu. Im lặng. Im lặng đến rợn người. Như chưa từng có ai qua sông. Như chưa từng có trận bom trước đó…
Ông bỏ lên bờ, thề không bao giờ bước chân xuống nước nữa.
Đại tá Lâm Huế, là người Huế nhưng suốt thời quân ngũ cho đến giờ ông gắn bó với Tây Nguyên, khi ấy là trung đoàn trưởng, giờ nghỉ hưu và vẫn ở tại thành phố Pleiku, kể rằng: “Thời đó bom đạn ác liệt vô cùng vì địch biết đây là cửa ngõ huyết mạch của chiến trường Tây Nguyên và Lào. Chúng vãi bom đạn như mưa, không kể ngày đêm. Thế mà kỳ lạ, dưới những cơn mưa bom đạn ấy, hàng ngàn quân vẫn lần lượt qua sông, dưới tay chèo Puih San”... Rơ Chăm Lim, một trong những tiểu đội trưởng tiểu đội lái đò trên dòng sông Pô Kô năm nào, sau này sống ở xã Ia Khai, huyện Ia Grai, thì kể: “Để đưa bộ đội qua sông an toàn phải bố trí đến ba tiểu đội, ngoài tiểu đội chèo đò còn có một tiểu đội phụ trách phòng không đề phòng máy bay Mỹ thả bom, rồi một tiểu đội bảo vệ ở phía bờ bên kia đề phòng địch từ phía Cam-pu-chia tràn sang”…
Có một chi tiết là, khi viết bài hát Người lái đò trên sông Pô Kô, cả nhạc sĩ Cầm Phong và nhà thơ, nhà báo Mai Trang đều chưa ai biết… A Sanh. Mà thời ấy, khi bài hát đã nổi tiếng thì bộ đội qua sông đều gọi những người lính lái đò là A Sanh, cứ “A Sanh ơi, cho qua sông với” là một con đò lao vút sang đón người…
A Sanh trở thành tên gọi chung cho những người lái đò chở bộ đội và vũ khí qua con sông Pô Kô chảy ven biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia kéo dài từ Kon Tum xuống Gia Lai như thế.
Bài hát ấy hay lắm, bây giờ vẫn còn nhiều người hát. Giai điệu da diết mà bâng khuâng, nồng thắm và sâu lắng nhưng lại cũng rất hào hùng cứa vào lòng người chứ không thấy không khí chiến tranh đâu cả. Ca khúc ấy được xếp vào nhóm bài hát “Những bài ca đi cùng năm tháng”.
Tôi từng có phát hiện thú vị, ấy là các ca khúc Việt Nam viết về những nhân vật cụ thể, thường là khi người ấy đã mất (trừ lãnh tụ), như Nguyễn Văn Trỗi, Nguyễn Viết Xuân, Kim Đồng, Nguyễn Bá Ngọc, Chị Sáu… nhưng ở Gia Lai lại ngược lại, ấy là ngay khi còn sống, có tới ba ông, hai ông chưa phải là anh hùng, nhưng đã là nhân vật của các bài hát, và bài nào cũng nổi tiếng, sống lâu, được nhiều người yêu thích và hát, ấy là ông Núp, ông Bùi Ngọc Đủ và ông A Sanh này.
Sau khi được báo chí “phát hiện” A Sanh chính là Trung úy Puih San, ông được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang, và một năm sau thì ông mất.
Những con sông vẫn muôn đời thao thiết chảy. Và nó chứa trong mình biết bao ký ức, có cái đã lộ, có cái mãi mãi bí ẩn. Và chính những bí ẩn ấy, nó làm cho những con sông trở nên huyền hoặc hơn. Sông ở Tây Nguyên đã góp cho cuộc đời những câu chuyện đẹp, và những tác phẩm nghệ thuật hay...