Vợ chồng phó cối - Truyện ngắn của HOÀNG NGHĨA

Dãy Mao Sơn hình móng ngựa nằm chênh chếch về phía tây đỉnh Quy Sơn trông như cái khuyên trăng hờ hững giữa đất trời. Theo truyền thuyết, cứ một trăm năm bóng mặt trăng hòa cùng dãy núi làm một, loài cá hương từ trong khe sâu sẽ chui ra khỏi cửa hang đẻ trứng và loài hoa trông như lông mao ngựa sẽ nở trắng, cánh hoa lả tả tung lên theo gió như những bông tuyết giữa ngày hè.
Minh họa: VIỆT ANH
Minh họa: VIỆT ANH

Dân bản vẫn gọi tên là hoa bồ công anh. Ngay dưới chân Mao Sơn có một bản làng nhỏ hàng bao thế kỷ qua sống bằng nghề đục cối đá và đốn củi. Loại cối đá xanh qua những bàn tay thủ công đục đẽo từng nức tiếng một thời. Trong làng có lão phó cối họ Hoàng, truyền nhân của vị tổ sư nghề đục cối từ kinh thành Thăng Long lên vùng sơn cước lập nên xóm bản này.

Ðứng trên đỉnh Quy Sơn trông xuống làng Cối vào một sáng mùa xuân mờ sương thật đẹp. Những mái nhà kiểu nhà sàn nằm nem nép bên rặng đồi như cây nấm giữa trùng sương. Sương giăng bạt núi. Ðất trời êm đềm thiếp ngủ. Chỉ có âm thanh duy nhất là tiếng con suối Seo May rắt riu chảy, nghe như tiếng đàn đá. Trong sương, dáng lão phó cối ra sức đánh tung chiếc roi da quất vào mông con lừa già gầy đét, vợ phó cối gồng lưng đẩy sau chiếc xe thồ. Hai vợ chồng đang đưa cối đi chợ phiên. Chợ phiên vùng cao ba tháng mới họp một lần và đây là phiên chính của cả mùa xuân. Phiên chợ đông vui, tấp nập nhất cả cái huyện vùng biên này.

Lâu lâu, hai vợ chồng lại bắt gặp một vài người trên lưng đầy gùi bắp chuối tươi xuống núi. Biết vợ chồng lão phó, họ đùa vui:

- Vợ chồng bác phó đi chợ phiên đấy à! Chày của bác mà giã thì ai cũng khoái, cả cái cối của bà phó nữa.

Lão phó lấy tay gạt mồ hôi rịn hai bên thái dương. Trời đã vào xuân, vẫn còn cái se buốt vùng cao mà đoạn đường dốc cũng khiến người lão như bốc hỏa.

- Cái đó thì đương nhiên rồi. Người nào của nấy mà.

Mọi người lại ra đi. Chỉ còn tiếng thở nặng nhọc và tiếng nói cười lẫn trong sương sớm. Ở đây, phải tầm chín, mười giờ trưa mặt trời mới chịu nhô lên khỏi đỉnh Quy Sơn ban phát nguồn ánh sáng mát lành.

Vợ lão phó là gái xứ Tuyên chính cống. Ngày trẻ, mụ đẹp nổi tiếng miền sơn cước này. Gốc gác hàng chục đời của mụ là từ thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, quan lại vua chúa trong triều dắt díu chạy dạt lên đây. Ðời này qua đời khác, thê thiếp của họ là những hồng nhan sắc nước khắp vùng tụ về sinh con đẻ cái để nhân ra những bông hoa rừng núi. Ngày trẻ mụ đẹp lắm chứ không có cái vẻ sồ sề như bây giờ. Cuộc sống mưu sinh khốn khó đã tàn phá nhan sắc mụ đến khiếp, mụ hay bảo thế. Nhưng lão phó lại bảo khác. Lão bảo chính vì mụ là "đu đủ đực" nên thành ra thế.

Vợ chồng phó cối sống với nhau gần trót đời mà không sinh nổi mụn con. Mụ phó cũng vài ba lần mang thai nhưng bị sẩy. Chắc tại lão phó. Thời trai trẻ, dăm ba năm lão tham gia dân công hỏa tuyến dọc tuyến đường Trường Sơn nên đã hít không ít thứ thuốc diệt cỏ của giặc Mỹ. Nhưng mụ phó lấy sự không sinh nổi đứa con là do lỗi ở mình nên cũng hay tự dằn vặt, thành ra lúc nào lão phó say rượu có cằn nhằn, mắng nhiếc mụ cũng im.

Việc của lão phó là đẽo chày, đục cối và đi lắp cối xay cho các làng lân cận. Việc của mụ là vào rừng lấy củi đốt lên thành than đem bán. Lão phó vẫn bảo: "Vợ gỗ, chồng đá". Ðá thì tất nhiên cứng hơn gỗ nên lúc nào lão cứng thì mụ phải mềm.

Cách đây vài năm, Nhà nước mắc lưới điện vào tận vùng thâm sơn cùng cốc này, riêng làng Cối bị dãy Mao Sơn chia cắt nên điện chưa vào được. Cái xã cách làng Cối nửa ngày đi bộ đã sắm được máy xát. Những hôm có gió đông, thảng trong gió lão vẫn nghe tiếng máy chạy xình xịch. Lâu lâu, trong làng Cối cũng có dăm thanh niên trai tráng, cường sức, đánh lừa kéo xe thồ nặng trĩu những thóc, nếp, ngô, sắn xuống đấy xay xát. So với trước khi có cái máy "hại điện" ấy, bây giờ công việc của lão phó cối khó khăn hơn. Cối làm ra được ít người mua mà giá cả bấp bênh, tùy lòng khách trả.

Ðể đục đẽo thành hình cái cối trọn vẹn lão mất đến hàng tuần kiệt lực, nhưng đem bán chẳng đáng là bao. May ra được dăm ba nồi thóc. Biết vậy lão vẫn làm vì không biết làm việc gì khác. Lâu lâu, có người gọi đi lắp cối xay, tiền công ít khi bằng tiền mặt, lần vài nồi thóc, nồi ngô, có khi chủ nhà đãi chầu rượu sắn nhắm với món ruột trâu xông khói là xong. Ðối với lão phó, việc đục đẽo không chỉ để kiếm tiền đong gạo, mà lão làm vì cái thú của riêng mình. Giống như một nhà điêu khắc, nếu bỏ quên vài ba ngày không cầm tay đục sẽ thấy nhớ. Dòng máu nghệ nhân bao đời chảy trong huyết quản và lão biết sau lão sẽ không còn ai theo nghề này nữa.

Việc đốt than của mụ phó, nó cũng như mầu sắc của viên than vậy. Mỗi bữa đi chợ mua được ít mắm muối, số tiền lẻ nhem nhuốc còn lại, mụ về đút ống bơ. Cuộc sống của vợ chồng phó cối cũng cứ lắt lay như ngọn khói đốt nương, đốt rẫy mà qua ngày đoạn tháng.

Chuyện kể rằng, xưa vùng đất bao quanh dãy Quy Sơn là một cái hồ rộng hàng nghìn mẫu vuông, bốn mùa nước xanh leo lẻo, quanh năm sếu hạc rập rờn. Trong hồ có giống rùa lạ sống hàng nghìn năm, mai rùa có mầu xanh ngọc. Ðấy là loại rùa mà các thổ hào, tộc trưởng miền núi vẫn lấy làm thứ để tiến cống nhà vua. Trong hồ có một con rùa lớn, to như quả đồi con. Hàng trăm năm mới ngoi lên mặt nước một lần. Ðấy là giữa lúc mặt trăng viền với đỉnh Mao Sơn làm một, thành khuôn tròn vành vạnh như cái đĩa tráng bạc khổng lồ. Con rùa ngoi lên mặt nước trông như một ốc đảo mọc lên giữa lòng hồ. Mọi người vẫn gọi đấy là rùa chúa. Nhưng một năm kia, sau trận hạn hán lịch sử, khu hồ lớn kiệt nước, tất cả sinh vật sống trong hồ chết sạch. Rùa chúa như ốc đảo nằm im giữa lòng hồ, hơn năm sau mới chết. Cứ thế năm này qua năm khác, đất đá thời gian phủ lên, đến nay thành đỉnh Quy Sơn. Trèo lên đỉnh Mao Sơn mà trông sang thì ai nấy đều kinh ngạc khi trước mắt mình là một con rùa khổng lồ sừng sững bằng đá xanh, đầu ngoảnh về hướng bắc. Lão phó vẫn lấy đá ở đấy về đục cối. Loại cối không vùng nào sánh bằng vì cái sắc đá và độ cứng bền.

Hàng bao thế kỷ cụ rùa ấy vẫn uy nghi, lẫm liệt giữa đất trời. Gần đây, khắp các bản làng bao quanh đỉnh Quy Sơn xôn xao chuyện đang có dự án kéo điện, mở đường vào tận chân núi để khai thác đá làm vật liệu xây dựng và đá mỹ nghệ xuất khẩu. Dạo trước có đoàn cán bộ dưới xuôi lên khảo sát suốt nửa tháng trời, ăn ngủ trong nhà vợ chồng phó cối. Lúc về họ mua của lão phó, đóng thành thùng lớn các loại cối cỡ nhỏ và những rùa đá cỡ bàn tay mà trong lúc rảnh rỗi lão phó hay mài đẽo coi như một trò giải trí. Tháng một lần, lão phó lại đánh con lừa già kéo xe thồ đến chân Quy Sơn chọn những vỉa đá, khối đá xanh đẹp nhất, sắc đá lấp lánh nhất về đục cối. Từ một khối đá thô sơ như cái thúng, sau dăm ngày tay chạm, tay đục nó đã thành cái cối tròn trạnh, vuông vức với những lớp vân đục tuyệt xảo. Những viên đá thừa thẹo lão cất đi, lúc nhàn hạ lại đưa ra gọt đẽo thành những hình thù yêu thích. Rùa vẫn là con vật lão tỉ mẩn để chế tác nhất. Mấy lần lão đem đi chợ phiên cùng xe cối, khách du lịch họ rất thích và lão phó đã bán được giá cao gấp nhiều lần giá trị một cái cối. Trong phiên chợ xuân này, trên chiếc xe thồ ấy kèm theo cả một thùng gỗ hàng mấy chục con rùa đá tương tự.

Chiều, ông mặt trời mầu tiết trâu uể oải nấp mình sau đỉnh Quy Sơn, vợ chồng lão phó dong lừa về làng xuống con dốc, khuôn mặt hai người phớn phở khác thường. Nhìn vào đấy, ai cũng đoán được là hai vợ chồng lão có một phiên chợ đắt hàng. Trên thùng xe là hàng tá các thứ hàng hóa, thực phẩm chất có ngọn. Lão phó tậu được cái tẩu hút thuốc, cứ ngậm luôn từ chợ về, đi đến đâu khói phì ra đến đấy.

Con đường rải nhựa như lưỡi dao cắt ngọt, trườn qua các sườn đồi, trảng núi vươn mình sát chân Quy Sơn. Công trường khai thác đá hình thành nhanh chóng. Ô-tô, máy xúc, máy ủi như đàn bọ hung khổng lồ kéo đến. Công nhân, phu đá trông như lũ kền kền ăn xác thối tụ về. Ðỉnh Quy Sơn như tảng thịt đã nằm trên thớt. Vì nằm trong vùng đất con đường tràn qua nên trước khi xây dựng cung đường này, làng Cối đã chuyển đi sang một vùng đất mới, cách đấy hàng chục cây số về hướng bắc. Duy chỉ có vợ chồng phó cối không dời đi. Từ khi nhà bị phá, vợ chồng lão cất tạm căn nhà vầu nứa ở lưng chừng mé sau đỉnh Quy Sơn. Nghề đục cối của lão chính thức khai tử vì lão không được lấy đá nữa. Ðỉnh Quy Sơn bây giờ thuộc quyền quản lý của công trường khai thác. Mụ phó vẫn vào sâu trong núi đốn củi đốt than, riêng lão phó tìm vui bên vò rượu sắn. Lúc rảnh lại mang những cục đá nhỏ ngày trước đẽo cối thừa ra, được lão cất đi, đem chạm đục nên những con rùa nhỏ. Ðường chạm, tay đục tinh vi, tuyệt xảo. Lão phó như dồn hết vốn tâm lực và nhiệt huyết còn lại vào những con rùa đá nhỏ.

Ðêm trước hôm công trường khai thác đá chính thức khởi công cũng chính là cái đêm đến kỳ hạn một trăm năm theo truyền thuyết, mặt trăng viền với dãy Mao Sơn làm một. Ánh trăng dát bạc khắp núi rừng. Nhìn khắp chốn cỏ cây, sim mua đính triệu triệu mảnh trăng. Loài hoa mao ngựa nở trắng bay khắp đất trời, dưới ánh trăng tạo nên một mầu lấp lánh huyền ảo. Lão phó cối vẫn ngật ngừ bên vò rượu, miệng không thôi chửi rủa mụ phó, chửi rủa cái công trường dưới kia, chửi cái sự đời đen bạc, chuyển vần chớp mắt...

Lão cối say thiếp đi. Trong cơn say tỉnh chập chờn, lão thấy đất trời vần vũ. Mặt đất như trong một trận đại hồng thủy khủng khiếp. Quanh đỉnh Quy Sơn, một vòng tròn đất đá nứt ra sâu hun hút đến cả nghìn thước, từ dưới ấy một nguồn nước trắng xanh ngầu bọt phun lên như triệu triệu đàn bạch mã hí vang. Hoa mao ngựa cứ bay...  cứ bay...  lả tả...  lả tả như hàng nghìn bông tuyết trước con mắt lão.

Thoáng trong nháy mắt, đỉnh Quy Sơn bị dòng nước vây lên tận ngọn như viên đá ném vào chậu nước chỉ trồi lên cái đỉnh nhỏ. Mặt nước là hỗn hợp của thủy tinh và lửa lấp lánh xô đi với một sức mạnh khủng khiếp chỉ bị chặn lại khi đến dãy Mao Sơn. Có tiếng hàng trăm con người kêu cứu loạn xạ, tiếng kim loại, sắt thép, xe cộ, máy móc bị dòng nước cuốn va đập vào nhau hòa với sóng nước lồng lộn tạo nên dàn hợp âm đinh tai nhức óc. Hoa bồ công anh cứ bay, dập dờn trước gió.

Một lúc sau, mọi âm thanh tự dưng im bặt chỉ còn hiện ra trước mắt lão là mặt hồ khổng lồ sóng sánh. Viền trăng giao kết với dãy Mao Sơn tạo thành một vầng trăng tròn y đáy đĩa dát vàng khổng lồ mà đỉnh Quy Sơn chỉ là một chấm đen nhỏ điểm tô chính tâm cái đĩa vàng ấy. Cảnh vật ngời ngợi dưới trăng. Núi rừng rờ rỡ dưới trăng. Ðẹp đến kỳ vĩ. Ðỉnh Quy Sơn nhẹ nhàng chuyển động, thoắt ngay nơi lão ngồi cùng căn nhà cũng chuyển động. Ðỉnh Quy Sơn nhô cao lên mặt nước. Lão hoảng hồn khi dưới lão là một con rùa khổng lồ với cái mai xanh láng có những đường vân vi dọc ngang rất đẹp. Con rùa đưa lão dạo quanh khắp lòng hồ. Con rùa đi đến đâu suối trăng tuôn theo đến đấy. Lão phó nghĩ mình chẳng khác gì một vị thần tiên thoát tục. Như chợt nhớ ra điều gì, lão liền trút bỏ cái hộp gỗ đựng mấy chục con rùa đá nhỏ cất công đẽo gọt xuống lòng hồ, thoáng chốc cả một đàn lớn rùa nhỏ ve vẩy bơi theo rùa chúa. Mai của mỗi con rùa như được chạm khắc bằng ánh trăng. Lão thấy mụ phó biến thành một cô sơn nữ mười tám đôi mươi xinh đẹp thoắt cái lại biến thành một đóa bồ công anh lớn và cứ tan ra...  tan ra theo những cánh hoa nhỏ như lông mao ngựa cứ bay lên...  bay lên, lừng lững về trời...