Nhưng vẫn có những “từ khóa” chung, để chúng tôi tiến lại gần nhau thật nhanh: “Việt Nam”; “Hồ Chí Minh”; “Điện Biên Phủ”, và… “Tướng Giáp”…
Chân lý vĩnh cửu
Thời gian rất tàn nhẫn. Nó có thể dần xóa mờ mọi ký ức và cảm xúc, theo dòng chảy không thể ngăn cản của mình. Nhưng thời gian không bao giờ xóa mờ được chân lý.
Chúng tôi được giao nhiệm vụ đến với bè bạn châu Phi, cách xa trên dưới 10 nghìn km, chênh nhau 6-7 múi giờ, để tìm lại những câu chuyện năm xưa, nhằm trả lời một cách thành thật nhất, câu hỏi: Chiến thắng Điện Biên Phủ đã tác động tới các bạn như thế nào?
Cách đây 70 năm và trước đó nữa, Việt Nam cùng nhiều nước châu Phi có chung một kẻ thù: chủ nghĩa đế quốc-thực dân. Chúng tôi tìm tới những viện bảo tàng ở Algeria và Morocco, nhìn những bức ảnh, những hiện vật, mà cứ ngỡ như thăm một bảo tàng về quãng lịch sử nào đó ở Việt Nam, bởi sự giống nhau đến kinh ngạc. Giống nhau về quần áo và gương mặt của những kẻ xâm lược. Giống nhau về những hành động tàn ác, cũng như cuộc sống khổ cực, nhục nhằn mà chủ nghĩa thực dân đã gây ra cho người dân các quốc gia thuộc địa. Nhưng điều quan trọng nhất: Chúng ta giống nhau ở tinh thần đấu tranh, để giành lấy độc lập, giành lấy quyền tự quyết vận mệnh cho chính quốc gia, dân tộc mình!
Mà cũng bởi vậy, bạn bè ở đây coi chiến thắng Điện Biên Phủ như là chiến thắng của chính họ. Một thí dụ đầy đau thương: Ngày 8/5/1945, thực dân Pháp đã tàn sát 45.000 người dân thủ đô Algiers của Algeria và những vùng lân cận, vì đã đứng lên “đấu tranh giành độc lập” (nhưng bị coi là “nổi loạn”). Chín năm sau, ngày 8/5/1954, tin Chiến thắng Điện Biên Phủ bay đến Algeria đúng ngày quốc tang. Rất nhiều tiếng thét vang vọng: “Các bạn Việt Nam đã trả thù cho chúng ta!”. 70 năm sau, có những cụ ông khi gặp chúng tôi, đã chìa ra nhật ký của người thân, hằn sâu ký ức hôm đó…
- Bạn có biết về Đại tướng Võ Nguyên Giáp của chúng tôi không?
- Không, tôi không biết!
- À không, bạn có biết về “Tướng Giáp” không?
- Ồ, có chứ! Có chứ! Tướng Giáp rất vĩ đại, ông ấy là một nhân vật lịch sử! Tướng Giáp và Chiến thắng Điện Biên Phủ của các bạn còn có ở trong sách giáo khoa của chúng tôi cơ mà!
Ngay sau đoạn giao tiếp bằng tin nhắn điện thoại đó, anh cảnh sát lấy hai ngón tay trỏ của bàn tay trái và tay phải, cọ vào nhau: “Việt Nam và Algeria như thế này này! Chúng ta là anh em!”. Biết rằng sáng hôm sau chúng tôi lại phải lên đường sớm, anh dặn: “Cố chờ nhé! Tôi có quà cho bạn!”.
5 giờ 30 phút sáng hôm sau, khi tôi thức dậy, lễ tân khách sạn chìa ra mấy tờ giấy, nói rằng anh cảnh sát đã tới đó từ tờ mờ sáng, và nhờ chuyển tận tay cho tôi những trang sách được anh chụp bằng điện thoại. Dù không hiểu tiếng Arab, nhưng tôi nhìn thấy bức ảnh bộ đội ta vẫy cờ trên hầm Đờ Cát, và một bức ảnh chân dung Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Thế là đủ!
“Hồ Chí Minh”, “Điện Biên Phủ”, “Tướng Giáp” - đó thật sự là những thanh âm truyền cảm hứng, truyền đi niềm tin chiến thắng đến những dân tộc bị áp bức, trước cường quyền. Ngay ngày 24/6/1954, sáu thành viên sáng lập Ủy ban Cách mạng Đoàn kết và Hành động Algeria bí mật tập hợp. Trong cuộc họp đó, ý tưởng khởi nghĩa giành độc lập đã được nhất trí.
Tại Điện Biên Phủ, Quân đội thực dân Pháp không chiến đấu với Quân đội Nhân dân Việt Nam, mà họ phải chiến đấu với Dân tộc Việt Nam. Đó cũng là tinh thần anh dũng mà cả đất nước Algeria đã mang vào cuộc chiến đấu của mình, với phát súng lệnh là Bản tuyên bố khởi nghĩa ngày 1/11/1954. Và nếu chúng ta có “Chín năm làm một Điện Biên. Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng” thì các bạn Algeria cũng có tám năm chiến đấu anh dũng, để chính thức giành lại độc lập vào năm 1962.
Và, tên của Chủ tịch “Hồ Chí Minh” đã được đặt cho hai đại lộ ở Algeria, ở Thủ đô Algiers, và thành phố Oran.
![]() |
| Nhóm các nhà báo của Trung tâm Phát thanh-Truyền hình Quân đội trong chuyến làm phim về Điện Biên Phủ tại Algeria. |
Câu đối cổng làng, và những bước ngoặt số phận
Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu. Đó là chiến công huy hoàng của dân tộc Việt Nam. Nhưng, đó cũng là chiến thắng chung của những dân tộc bị đô hộ, là nguồn cổ vũ, là sức mạnh tinh thần để tạo nên rất nhiều những “Điện Biên Phủ” khác, ở nhiều nơi trên thế giới… trong đó có châu Phi.
Là những bước ngoặt lịch sử của nhiều dân tộc, nhưng đó cũng là bước ngoặt số phận của biết bao con người… Chúng tôi muốn nói đến những người lính châu Phi ở các quốc gia thuộc địa của Pháp, đã bị bắt sang chiến đấu ở chiến trường Đông Dương, mà một trong những nước đông nhất là Morocco.
Lính Lê dương là phiên âm tiếng Việt rút gọn của Légionnaire Étrangère, nghĩa là Quân đoàn Ngoại quốc. Và còn lính mộ/Goum - tên đội quân người bản xứ (như Algeria hay Morocco) hoạt động dưới quyền chỉ huy của các sĩ quan Pháp ở châu Phi. Khi Pháp chiếm Đông Dương, một số đơn vị Goum cũng bị điều sang tham chiến. Nhiều người trong số họ đã thực hiện một “Điện Biên Phủ” cho chính mình trong nhận thức, để quay về với chính nghĩa và lẽ phải, buông súng theo Việt Minh. Không chỉ là hàng binh, nhiều người trong số họ thậm chí còn lập công, hoặc trở về Tổ quốc của mình, để góp sức thổi bùng lên ngọn lửa quật khởi.
Đó là chuyện của cách đây 70 năm. Còn hiện tại, ở Morocco, có một chiếc cổng đặc biệt tại làng Douar Sfari, ngoại ô thành phố Kénitra. Trên cổng có đôi câu đối viết bằng tiếng Việt: “Ơn Maroc quê cha, quyết phấn đấu vươn lên thành đạt; Nhớ Việt Nam đất mẹ, nguyện xây tình hữu nghị thủy chung”. Chiếc cổng làng Việt Nam ấy được khánh thành cuối năm 2022, như một thông điệp xuyên thời gian, khắc họa niềm tự hào chung, và mối “nhân duyên” mang tên Điện Biên Phủ giữa hai nước.
Cộng đồng người Việt tại Morocco được hình thành chủ yếu từ các gia đình có chồng là hàng binh thời kỳ kháng chiến chống Pháp, vợ người Việt Nam, sang Morocco sinh sống từ năm 1972. Làng Việt Nam do Vua Hassane II (cha của vua Mohamed VI hiện nay) cấp cho bảy trong số trên dưới 80 gia đình sau khi hồi hương về Morocco. Từ đó đến nay, đã có 2-3 thế hệ sinh ra và lớn lên tại đây, và Làng Việt Nam trở thành nơi tập trung của cộng đồng mỗi dịp lễ, Tết.
Chúng tôi may mắn gặp được những cụ bà tuổi xấp xỉ 90, theo chồng sang Morocco. Bằng sự tần tảo và nghị lực của phụ nữ Việt Nam, các cụ, các bà đã gây dựng được tổ ấm, cơ ngơi, phần nhiều kinh tế khấm khá. Và có một điều đặc biệt xúc động: Trong căn nhà nào cũng có ít nhất một tấm ảnh Bác Hồ!
Mỗi người trong số họ mang theo một câu chuyện. Dù ký ức có phủ bụi, dù có khi không được tỏ tường, nhưng họ đều kể rằng, năm xưa, những người lính Morocco chồng họ, khi theo về “Bộ đội Cụ Hồ”, đã được đối xử rất bao dung và nhân từ. Bộ đội biết họ là người nước ngoài, to cao, nên những tiêu chuẩn ăn uống cấp phát cho tù binh đều nhiều hơn cho bộ đội… Có đôi khi, không cần điều gì cao xa, to tát, chỉ như vậy là đã quá đủ để họ cảm phục nhân nghĩa và chính nghĩa.
Có những người trong số hàng binh ấy ở lại Việt Nam, làm ăn, sinh sống dưới chân núi Ba Vì, trong một nông trường được thành lập lấy tên là “Nông trường Việt Phi”, để khai hoang, nuôi bò sữa, trồng trọt. Họ kết hôn, lập gia đình với các phụ nữ Việt Nam, kết tinh mối tình hữu nghị hai dân tộc.
Thế hệ con cháu của các cụ, hay nói vui là thế hệ F1, hiện cũng đã ở tuổi 50, 60, nói tiếng Việt bằng giọng lơ lớ, nhưng các anh, các chị vẫn hát được những bài hát Việt Nam. Đó là những bài hát rất xưa, dành cho thiếu nhi, như “Đôi dép Bác Hồ”. Họ vẫn nhớ về quê mẹ bằng ký ức của những cô cậu bé lên sáu, lên bảy, khi rời Việt Nam sang Morocco - quê cha.
Các thế hệ F2, F3, phần nhiều gặp khó khăn khi giao tiếp bằng tiếng Việt. Âu đó cũng là lẽ dễ hiểu, là quy luật của thời gian. Điều quan trọng, họ vẫn luôn biết: Chảy trong huyết quản của mình, luôn có dòng máu Việt!.
