Ngược dòng thời gian, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á ra đời. Ngày 2/9/1945, tại vườn hoa Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, trịnh trọng tuyên bố với quốc dân đồng bào và toàn thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”. Không lâu sau ngày tuyên bố độc lập, thực dân Pháp được các thế lực phản động quốc tế giúp sức trở lại xâm lược Đông Dương. Dựa vào trang bị vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại, chúng tin rằng sẽ nhanh chóng đè bẹp sự kháng cự của nhân dân Việt Nam. Quyết tâm bảo vệ thành quả cách mạng vừa giành được, nhân dân Việt Nam cùng nhau đoàn kết dưới ngọn cờ của Đảng và Chính phủ kháng chiến do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, đã anh dũng chiến đấu, từng bước đập tan các chiến lược chiến tranh của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ.
Đến năm 1953, cục diện chiến tranh có sự chuyển biến quan trọng. Lợi dụng những khó khăn của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ tăng cường viện trợ giúp Pháp kéo dài và mở rộng cuộc chiến tranh Đông Dương nhằm phục vụ cho chiến lược toàn cầu của Mỹ. Tháng 7/1953, được sự nhất trí của Mỹ, chính phủ Pháp thông qua Kế hoạch quân sự Nava với nội dung cơ bản: Tập trung xây dựng khối chủ lực mạnh, có khả năng cơ động cao, mở cuộc tiến công chiến lược giành thắng lợi quyết định. Chỉ sau một thời gian ngắn, trên chiến trường Đông Dương, địch đã củng cố, xây dựng được 84 tiểu đoàn cơ động chiến lược, trong đó tập trung 44 tiểu đoàn ở đồng bằng Bắc Bộ.
Trước âm mưu và hành động mới của địch, bước vào chiến cuộc Đông- Xuân 1953-1954, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đề ra chủ trương: Tập trung lực lượng mở những cuộc tiến công vào những hướng quan trọng về chiến lược mà địch tương đối yếu nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng đất đai, đồng thời buộc chúng phải bị động phân tán lực lượng đối phó với ta trên những địa điểm xung yếu mà chúng không thể bỏ, do phải phân tán binh lực mà tạo ra cho ta những điều kiện thuận lợi mới để tiêu diệt thêm từng bộ phận sinh lực của chúng”. [1]
Thực hiện chủ trương đề ra, quân và dân Việt Nam phối hợp chặt chẽ với quân và dân hai nước bạn Lào, Campuchia mở các cuộc tiến công trên khắp chiến trường Đông Dương (Tây Bắc, Thượng Lào, Trung Lào, Tây Nguyên,…) buộc địch phải phân tán lực lượng đối phó. Bộ chỉ huy quân viễn chinh Pháp huy động lực lượng, xây dựng Điện Biên Phủ (Tây Bắc, Việt Nam) thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương nhằm thu hút và đánh bại chủ lực ta. Đến đầu tháng 3/1954, quân Pháp tập trung tại Điện Biên Phủ lực lượng lên đến 16.200 tên, gồm những đơn vị bộ binh, pháo binh, công binh, xe tăng, không quân thuộc loại tinh nhuệ nhất ở Đông Dương; được bố trí thành một hệ thống phòng ngự mạnh, gồm 49 cứ điểm, chia thành ba phân khu với những loại vũ khí hiện đại. Cả Pháp và Mỹ đều đánh giá Điện Biên Phủ là một “pháo đài không thể công phá”, nếu chủ lực Việt Minh tiến công thì chắc chắn sẽ không tránh khỏi thất bại.
Về phía ta, sau khi phân tích kỹ tình hình mọi mặt, so sánh lực lượng địch- ta, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ - đòn quyết chiến chiến lược nhằm kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng chí Đại tướng Võ Nguyên Giáp (tháng 12/1953) có nêu rõ: “Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà đối với quốc tế. Vì vậy, toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được”. Lực lượng ta tham gia chiến đấu lên đến 55.000 quân, gồm ba đại đoàn bộ binh (308, 312, 316), Trung đoàn bộ binh 57 (Đại đoàn 304), Đại đoàn công binh-pháo binh 351. Trên 260.000 dân công, 27.400 tấn gạo được huy động để cung cấp cho mặt trận Điện Biên Phủ.
Ngày 13/3/1954, quân ta nổ súng tiến công, mở màn chiến dịch. Đến ngày 7/5/1954, sau 56 ngày đêm chiến đấu dũng mãnh, khắc phục muôn vàn gian khổ hy sinh, “gan không núng, chí không mòn”, bộ đội ta đã đập tan tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, đập tan những cố gắng quân sự cuối cùng của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ.
Với Chiến dịch Điện Biên Phủ, quân và dân ta buộc thực dân Pháp phải ký kết Hiệp định Geneva (ngày 21/7/1954) công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Đông Dương, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ kéo dài chín năm (1945-1954); chấm dứt ách thống trị của thực dân Pháp kéo dài hàng thế kỷ; mở ra bước phát triển mới cho cách mạng Việt Nam, Lào, Campuchia. Đồng thời, Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ tạo nên sức cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc thuộc địa đấu tranh giành độc lập, nhất là các nước châu Phi, Mỹ la-tinh. Nhà sử học Pháp Jules Roy sau này đã thừa nhận, xét trên phạm vi thế giới: “Điện Biên Phủ thất thủ gây nỗi kinh hoàng khủng khiếp. Đó là một trong những thảm bại lớn nhất của phương Tây, báo trước sự sụp đổ của các đế quốc thuộc địa và sự cáo chung của một nền cộng hòa. Tiếng sấm Điện Biên Phủ vẫn hãy còn vang vọng”. Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 của quân dân Việt Nam góp phần làm sáng ngời chân lý: Một dân tộc bị áp bức, nhưng nếu quyết tâm chiến đấu vì độc lập tự do, có đường lối chính trị, đường lối quân sự đúng đắn, biết phát huy sức mạnh chiến tranh nhân dân, sức mạnh thời đại thì hoàn toàn có khả năng đánh bại những đội quân xâm lược hung bạo.
68 năm đã trôi qua, chúng ta càng nhận thức sâu sắc hơn, toàn diện hơn về tầm vóc, giá trị và ý nghĩa lịch sử của Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Chiến thắng ấy có nguồn gốc sâu xa từ bản lĩnh của dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, mà cốt lõi là tinh thần yêu quê hương đất nước và khát vọng độc lập, tự do.
TS Trần Hữu Huy
(Viện Lịch sử quân sự)
[1] Võ Nguyên Giáp: Điện Biên Phủ, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1964, tr.47.