Tìm về gió mây (Tiếp theo và hết)

Ðến lúc này Nguyễn Bỉnh Khiêm mới thấu đáo sự minh tuệ của mình trong việc từ quan. Còn Nguyễn Dữ, gã học trò giỏi kia, đã bộc lộ trong tác phẩm của y kỳ vọng cải tạo thể chế để bảo vệ sinh quyền và nhân phẩm của con người. Y mong muốn một xã hội mà chúng dân được sống yên bình trong nền đức trị, trong sự công bằng và tình nhân ái.

Gã đánh xe ngựa đã ăn uống xong, vẫn ngồi hóng chuyện, thỉnh thoảng gọi thêm các thức cho cuộc rượu của ba thầy trò. Nguyễn Bỉnh Khiêm nhắc gã:

- Chú vất vả cả ngày, cứ lên phòng nghỉ trước, thầy trò ta còn ngồi lát nữa. Hôm nay mười tám, trăng hạ tuần sắp mọc. Ta muốn nhìn lại cảnh quê dưới ánh trăng.

Gã đánh xe vâng lời đi lên lầu. Ðúng lúc ấy một luồng ánh sáng rực rỡ từ ngoài cửa sổ chiếu vào bàn rượu làm mờ cả những ngọn đèn dầu lạc treo quanh. Trăng hạ tuần đã mọc vượt khỏi đỉnh gò sau quán. Mưa đã tạnh, bầu trời đêm trong trẻo. Qua khuôn cửa sổ lớn, Nguyễn Bỉnh Khiêm nhìn thấy cách đấy vài chục thước trên đỉnh gò bóng một mái lầu vượt lên khỏi đám cành cây khô đen thẫm. Ánh trăng soi lấp loáng những họa tiết hoa văn ốp men sứ đẫm nước mưa trên nóc tòa lầu. Ông hỏi Nguyễn Dữ:

- Hình như trên kia có dinh thự của ai đó?

- Thưa, đấy là nhà một thương gia cự phú họ Trần, chuyên cung cấp đồ gốm sứ cho cung đình và các phủ đệ trên kinh đô.

Văn Chính hỏi:

- Sao dinh cơ của thương gia cự phú mà xung quanh cây cối chết khô, âm u không ánh đèn nến như nhà hoang vậy?

Dữ đáp:

- Nhà này ông ấy làm cho bà vợ lẽ lấy chỗ đi về các lò sứ vùng này. Còn dinh cơ chính ở kinh đô. Bà vợ lẽ đã chết từ ba năm nay, chỉ còn cô con gái riêng của bà ấy tuổi mới mười tám và người nhũ mẫu già, nên nhà cửa hoang tàn.

Văn Chính lại hỏi:

- Các bà vợ lẽ thường trẻ đẹp. Vợ lẽ đại phú gia phải thuộc hàng quốc sắc thiên hương. Cô con gái đang tuổi phát sắc, chắc là rực rỡ lắm?

Nguyễn Dữ cười:

- Huynh chỉ bằng vào vài trải nghiệm phàm tục của mình mà suy đoán vậy. Thực ra bà vợ lẽ này không phải là mỹ nhân, mà là một nghệ nhân ở kinh thành, bà ta đã có con riêng, nhưng có tài đàn địch, thi họa. Phú gia họ Trần đưa bà về đây để lo việc thẩm định quản lý mặt hàng gốm sứ trước khi chở về kinh. 

Nguyễn Bỉnh Khiêm nhìn đăm đăm về phía ngôi nhà trên gò, bỗng ngậm ngùi:

- Ban ngày chắc là cảnh sắc chốn ấy cũng hoang liêu cô tịch, chẳng hợp với một cô gái đang thì xuân sắc.

Vẻ mặt Nguyễn Dữ thoáng buồn:

- Vâng. Mấy năm nay phú thương họ Trần không ngó ngàng đến nên ngôi nhà như bỏ hoang, ngày đêm im lìm. Chỉ có lũ chim én kéo đàn về làm tổ. Ngày trở gió én bay ra rợp trời.  

Văn Chính ngẫm nghĩ rồi ghé tai Nguyễn Dữ:

- Ðệ đã trộm đoán ra lời đáp cho câu hỏi ban nãy của thầy về tác phẩm trứ danh 'Truyền kỳ mạn lục' của huynh rồi.

Nguyễn Dữ mỉm cười, đáp lại Văn Chính:

- Kẻ ma mãnh như huynh thì có thể nghĩ ra mọi thứ chuyện bậy.

Ba thầy trò đã chếnh choáng say. Họ ngưng chén, dùng đồ tráng miệng hầu bàn đem đến. Nguyễn Dữ đứng lên lễ phép:

- Giờ đã muộn, mời thầy và anh Chính lên gác trên nghỉ. Con về qua nhà lo chút việc, sáng mai con sẽ đến hầu thầy.

Nửa đêm, trời đổ cơn mưa nhỏ, tiếng mưa nhẹ thì thào như tiếng gió. Trong giấc ngủ chập chờn, Nguyễn Bỉnh Khiêm thoáng nghe như có tiếng đàn hát lẫn trong tiếng mưa. Ông lắng tai. Chỉ là tiếng mưa gió lùa nhẹ qua khe cửa. Nhưng rồi lại rõ là tiếng hồ cầm, loại hồ trung thường dùng để hòa âm cùng giọng của kép trung, kép trầm, hoặc giọng của đào trung, những ca nương có giọng thổ. Ông tỉnh ngủ hẳn. Ðúng là tiếng hồ cầm đang diễn tả những âm điệu ưu tư, trầm mặc, với giai điệu rất buồn. Rồi hồ cầm lặng đi, vang lên tiếng thập lục cầm. Nguyễn Bỉnh Khiêm biết rõ loại đàn này. Nơi kinh thành, chỉ những ca lâu sang trọng dành cho các vị công hầu, các vương tôn công tử mới có ca công dùng thập lục cầm. Mười sáu sợi tơ được gẩy bằng móng đồi mồi phát những âm thanh đồng tấu nghe như đua chen mà hòa hợp. Âm sắc của loại đàn này vốn trong trẻo tươi sáng lảnh lót, nhưng giữa đêm mưa thanh vắng nơi hoang vu này lại như nỗi day dứt, réo rắt tha thiết lắm.

Rồi có tiếng hát vẳng đến, giọng nữ thổ, nghe mệt mỏi, buồn bã, chán chường:

Từ xa Kinh khuyết bấy lâu

Tầm Dương đất trích gối sầu hôm mai...

Nguyễn Bỉnh Khiêm giật mình. Trời, sao lại có 'Tỳ Bà hành' ở chốn quê giữa đêm mưa buồn này? Chả lẽ có người tri âm tri kỷ biết ta ở đây nên đem thơ họ Bạch ra an ủi?

Chốn cùng tịch lấy ai vui thích

Tai chẳng nghe đàn địch cả năm...

Tiếng cầm ca lúc gần lúc xa lẫn trong tiếng mưa xạc xào.

Tiếng chi đó nghe liền sớm tối

Cuốc kêu sầu, vượn hót véo von

Hoa xuân nở, nguyệt thu tròn

Lần lần tay chuốc chén son ngập ngừng

- Văn Chính à... Có nghe thấy gì không, Chính? - Nguyễn Bỉnh Khiêm khẽ gọi. Rồi ông ngồi dậy nhìn sang giường Văn Chính. Ánh trăng trong mưa chiếu lờ mờ căn gác. Tấm màn quây quanh giường Văn Chính bất động. Gã thanh niên đang tuổi ăn ngủ. Sớm mai sẽ hỏi Nguyễn Dữ về chuyện này. Ông nằm xuống, kéo chăn đến tận cằm, mơ màng chìm trong tiếng đàn hát.

Tỳ bà nghe dạo canh khuya

Dường như tiên nhạc gần kề bên tai... (4)

Nguyễn Bỉnh Khiêm thiếp đi, cho đến khi Văn Chính khẽ lay vai ông:

- Thưa, đã đến giờ... Mời thầy dậy rửa mặt dùng điểm tâm.

Nguyễn Dữ đã chờ dưới nhà. Mấy thầy trò ăn điểm tâm xong, Nguyễn Dữ kính cẩn nâng trước mặt Nguyễn Bỉnh Khiêm một hộp gỗ sơn đen:

- Thưa thầy, con đã chép lại một bản chính của bốn tập 'Truyền kỳ mạn lục' kính nhờ thầy đọc và phủ chính giúp con trước khi làm bản khắc (5). Cũng nhân thầy về trí sĩ, con biếu thầy hai bộ ấm chén trà và nậm rượu bằng sứ Chu Ðậu, Mỹ Xá để dùng hàng ngày. - Nguyễn Dữ không quên châm chọc người bạn đồng môn, quay sang đưa chiếc hộp gỗ cho Văn Chính giữ, rồi nhắc:

- Ðây là bộ đồ ẩm trà tửu đệ đặt riêng lò gốm chế tác rất công phu để biếu thầy dùng. Khi huynh pha trà rót rượu hầu thầy phải chuyên tâm cẩn trọng, dù có mỹ nữ ngang qua mặt cũng không được liếc ngang liếc dọc, kẻo làm sứt vỡ thì phí.

Mấy thầy trò lại cười. Chợt Nguyễn Bỉnh Khiêm hỏi hai môn đồ:

- Khoảng giữa giờ Tý đêm qua, có ca nương đàn hát 'Tỳ Bà hành' đâu đây. Văn Chính có nghe thấy gì không?

Chính vội thưa:

- Con đi đường trường mệt, lại uống say nên ngủ không biết gì ạ.

Nguyễn Bỉnh Khiêm hỏi Dữ:

- Ta nghe ca nương vừa gảy đàn thập lục vừa ca giọng thổ, lại có hồ cầm phụ họa, thiện nghệ như ở ca lâu chốn kinh kỳ. 'Tỳ Bà hành' của Bạch Cư Dị là bản trường ca, ít người thuộc. Quanh đây có ai giỏi như vậy không?

Nguyễn Dữ thưa:

- Thưa thầy, có lẽ mấy người chuyên nghiệp cầm ca qua đây, nghỉ lại quán bên cạnh, lạ chỗ không ngủ được, ngồi đàn hát cho đỡ buồn chăng?

Nguyễn Bỉnh Khiêm gật gù lẩm bẩm:

- Có lẽ thế. - Rồi ông bảo người đánh xe, - Ðến giờ xuất hành rồi, ta đi thôi. - Ông đặt tay lên vai Nguyễn Dữ, ân cần - Ta sẽ nhuận sắc cho bộ sách của con. Nhưng con vẫn nên tự chỉnh lại đôi chỗ. Những thiên nào, đoạn nào nhận thấy giống trước tác của người khác, dù của các bậc đại gia, thì phải sửa lại cho có sắc thái của riêng mình. Rồi ta sẽ chỉ cho con những phần con viết giống như 'Tiễn đăng tân thoại' của Cù Hựu đời Nguyên. (6)

Văn Chính đỡ Nguyễn Bỉnh Khiêm lên xe. Nguyễn Dữ bùi ngùi bái biệt.

Khi chiếc xe ngựa men theo con đường vòng rẽ ra đường cái quan, Nguyễn Bỉnh Khiêm ngước nhìn lên đỉnh gò. Ban ngày thấy rõ mái tòa lầu rêu phong với những bao lơn vắng lặng và những khuôn cửa sổ đen im lìm. Từ đám cành cổ thụ khô xám khắc rối rít trên nền trời mây, những con chim én bay vụt lên liệng quanh. Nguyễn Bỉnh Khiêm nhận ra ngôi quán dê núi đơn độc giữa sườn gò, chẳng có túp nhà nào kề bên để có thể từ đấy vọng đến phòng ông tiếng đàn hát. Ca nương đêm qua chắc là ở tòa lầu hoang phế kia. Chú mục nhìn kỹ, ông thấy một bóng áo xanh nhỏ nhắn đứng trên đỉnh gò bên một gốc cổ thụ.

Nguyễn Bỉnh Khiêm mỉm cười nhớ đến Yến Tử Lâu trong thơ Bạch Cư Dị. Ông hình dung ra một nàng Tiểu Yến Tử cầm ca điêu luyện trong ngôi lầu Chim Én hoang tàn đã gợi cảm hứng cho người học trò tài hoa của ông viết nên bộ sách 'Truyền kỳ mạn lục'.

Văn Chính đã gục đầu ngoẹo cổ, ngáy, người nhún nhảy theo nhịp vó ngựa. Vẫn cái tật ăn không biết no, ngủ không biết đủ của tuổi tráng niên. Gã đánh xe ngựa ngoái lại thấy bộ dạng Văn Chính, mỉm cười khẽ nói:

- Thưa quan Trạng, sáng nay cháu dậy sớm xuống nhà xem ngựa xe thế nào, thì thấy cậu Chính cùng cậu Dữ từ trên đỉnh đồi xuống...

Lại vẫn là gã xà ích lật tẩy chuyện tưởng là cao siêu kỳ bí của những người nhiều chữ. Nguyễn Bỉnh Khiêm cảm thấy thú vị về hai môn đồ của mình. Ông hình dung ra nàng Tiểu Yến Tử lớn lên trong tiếng đàn ca của mẹ, bây giờ sống cô độc trong ngôi lầu hoang vắng chỉ có lũ chim én làm bạn. Ông nhớ trong thiên 'Tây viên kỳ ngộ ký' (Gặp gỡ ở vườn tây) của bộ 'Truyền kỳ mạn lục', Nguyễn Dữ có hai câu thơ hay:

Khả hận Ðông Hoàng tư trước ý/ Nhất chi tiều tụy nhất chi xuân

(Khá trách Chúa Xuân thiên vị lắm/ Một cành bỏ héo, một cành xuân).

Con đường về phía Ðông, gần trăm dặm nữa sẽ đến đất Vĩnh Bảo có ngôi làng Trung Am. Cỗ xe ngựa gõ móng hướng về phía ấy, nơi những đám mây trắng. 

------------

(4) Tỳ Bà hành của Bạch Cư Dị đời Ðường, bản dịch của Phan Huy Vịnh.

(5) Vũ Phương Ðề trong Công dư tiệp ký viết: 'Dữ ở ẩn không làm quan, viết Truyền kỳ mạn lục, phần nhiều được Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ chính (sửa chữa) trở thành 'thiên cổ kỳ bút'.

(6) Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú viết: 'Truyền kỳ mạn lục, bốn quyển. Dật sĩ Nguyễn Dữ soạn, đại khái bắt chước Tiễn đăng tập của một nhà nho đời Nguyên'.

--------------------

Văn hóa cơ sở qua một cuộc thi ảnh

VŨ HUYẾN

Sau một năm phát động, cuộc thi sáng tác ảnh tuyên truyền phong trào 'Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa' vừa kết thúc bằng cuộc ra mắt triển lãm các tác phẩm xuất sắc. Hơn 150 ảnh trưng bày trong triển lãm lần này được lựa chọn từ hơn ba nghìn ảnh mà ban tổ chức cuộc thi đã nhận được với hai thể loại ảnh đơn và ảnh bộ.

Thành công của cuộc thi ảnh là đã có được bức chân dung đẹp, đa dạng và sinh động về những hình thức hoạt động văn hóa khắp miền đất nước. Ðó là một Việt Nam có hàng nghìn lễ hội, một dân tộc có hàng nghìn năm tuổi. Với truyền thống đáp nghĩa, biết ơn các anh hùng liệt sĩ và các bậc tiền bối, của lối cư xử kính trên nhường dưới, chăm lo dạy dỗ thế hệ trẻ, tôn sư trọng đạo, hiếu học vốn có của cộng đồng người Việt, của sự đoàn kết cùng nhau ở các làng bản, giữa bộ đội với nhân dân.

Với việc khuyến khích loại ảnh bộ có sức chuyển tải sâu, đầy đủ hơn về thông tin, có khả năng phân tích và bày tỏ quan điểm cá nhân của người chụp, cuộc thi đã được một số nhà nhiếp ảnh chụp chuyên đề hưởng ứng. Các bộ ảnh được diễn đạt khá công phu, được chăm chút chu đáo. Ngoài vài bộ có điểm yếu là dài dòng, kể lể, có nhiều bộ ảnh chụp theo kiểu phương pháp phóng sự, chụp nhanh, giàu chi tiết phản ánh sinh động những đề tài cuộc sống cập nhật như 'Ði tìm hài cốt của 17 liệt sĩ', 'Từ thiện', 'Sức sống mới sau 10 năm thực hiện 'Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá' ở huyện Hoài Ân - Bình Ðịnh (gồm 10 ảnh)', bên cạnh các bộ ảnh đẹp, có giá trị văn hóa và tuyên truyền du lịch như 'Làng miến Cự Ðà', 'Hát bội', 'Lễ hội đâm trâu'. Ðây là ba bộ đã đoạt giải: nhất, nhì, ba.

Ðúng chủ đề, đúng tiêu chí là thành công lớn nhất cuộc thi được thể hiện rõ nhất qua những tác phẩm đoạt giải. 'Kể chuyện' (đoạt giải nhất) của Trịnh Tế Hà (TP Hồ Chí Minh), ngợi ca trách nhiệm của người cao tuổi với giới trẻ. Một cụ già người Chăm đọc sách cho các cháu nghe. Cuốn sách nói điều gì không biết được nhưng cuốn sách ấy đang sáng và đẹp lên như một tấm gương, trong khi ông cụ giở từng trang sách, thì các cháu đều chăm chú nhưng mỗi cháu lại có dáng điệu khác nhau. Ảnh 'Biểu diễn nghệ thuật cà kheo' của Vũ Thị Hương chụp một lễ hội ở phía bắc Việt Nam, trò chơi đi cà kheo trong ngày hội, nhưng không lẫn với trò đi cà kheo của nhiều nước châu Á khác. Nét vui của những người tham gia và bối cảnh phía xa những ngôi nhà mới... đó là vẻ đẹp của nông thôn miền bắc Việt Nam hôm nay trong những ngày hội mừng.

Về ảnh bộ, đáng kể có 'Làng miến Cự Ðà' của một tác giả nữ quê Hà Tây cũ. Cử nhân nhiếp ảnh của Ðại học Sân khấu Ðiện ảnh Hà Nội Nguyễn Thị Huyền tập trung chú ý vào người làm miến ở các công đoạn sản xuất khác nhau, với những động tác và góc chụp khác nhau. Nhờ cách chụp không dàn dựng, có nhiều ý ảnh, ở nhiều địa điểm, bộ ảnh giới thiệu một nghề lâu đời, ở một làng có giá trị văn hóa và kiến trúc là làng cổ Cự Ðà... dù có tới chín ảnh nhưng không gây sự trùng lặp và buồn chán cho người xem.

Cách chụp người thực, bối cảnh thực, giây phút thực còn thấy ở một số ảnh khác trong cuộc trưng bày này. Ảnh 'Thu hoạch mía đường' (giải khuyến khích) của Vũ Ðức Huy (Hà Nội) là một trong Thí dụ. Hy vọng ở nhiều cuộc thi ảnh khác từ nay về sau lối chụp phóng sự như thế xuất hiện nhiều hơn và cần được khích lệ nhiều hơn...

Từ đây, cũng thấy cần lưu ý đến một nhược điểm mà Hội đồng giám khảo có chung ý kiến là cuộc thi vừa qua dù có nhiều ảnh chụp, những con người có thật, việc làm có thật, nhưng do quá chú ý sắp xếp bố trí nên tính thuyết phục bị hạn chế. Ðó không phải là lỗi của người được chụp. Chúng ta hãy đến các cơ sở, khám phá và chiêm nghiệm, và khi đưa máy ảnh lên thì hãy nhớ cố giữ nguyên hiện trạng, hãy bằng việc chọn điểm chụp, chọn độ cao thấp, chọn hướng chiếu sáng, chọn các loại ống kính, định khoảng nét cho phù hợp và chọn thời điểm bấm máy sao cho cái điển hình bật lên. Hãy hạn chế tối đa việc bày đặt, bố trí vị trí cho các nhân vật. Thiết nghĩ đây không chỉ là yếu điểm thấy được ở cuộc thi lần này.

Ước muốn của Cục Văn hóa cơ sở, của Ban tổ chức và Hội đồng giám khảo cuộc thi là sẽ có tiếp tục các cuộc thi ảnh nữa cũng với nội dung này với những đòi hỏi cao hơn về chất lượng, có sự tham gia không chỉ của các nhà nhiếp ảnh có tên tuổi mà của tất cả những ai đang sử dụng máy ảnh, có thể có những giải thưởng riêng cho đơn vị nhiều người dự thi, cho người cao tuổi và người nhỏ tuổi, phần thưởng cho những người trực tiếp làm văn hóa cơ sở biết chụp ảnh. Một bộ sách ảnh đẹp về 'Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa cơ sở' cũng sẽ là một sản phẩm văn hóa lưu truyền, rộng hơn ngoài hình thức triển lãm ảnh vốn chỉ có thể tổ chức được ở thành phố và các đô thị lớn.