Thơ tìm đến cội nguồn

Xưa nay, Ðền Hùng vẫn là nguồn cảm hứng vô tận của thi ca, nhạc họa, câu đối. Ðó là lòng tri ân chân thành của các đấng quân vương, các bậc danh nho, khoa bảng, các nhà chí sĩ và các nhà thơ thuộc nhiều thế hệ đến đây chiêm ngưỡng, nghiêng mình trước đất Tổ thiêng liêng, nơi cội nguồn của dân tộc Việt, niềm tự hào là con cháu Tiên Rồng suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước.

Thơ tìm đến cội nguồn

Các Vua Hùng, lễ hội Ðền Hùng, các truyền thuyết thời Hùng Vương dựng nước như: Sơn Tinh, Chử Ðồng Tử, Thánh Gióng, Lang Liêu và những tên đất, tên làng như: Bạch Hạc, Minh Nông, Tiên Cát, Thậm Thình, An Thái, Phượng Lâu, Hùng Lô là những truyền thuyết và địa danh ở đây đã đi vào thơ ca của các tác giả và đã để lại nhiều bài thơ, câu thơ hay. Vua Lê Hiển Tông (1715 - 1788) đã từng lưu bút gửi lại nhắc nhở con cháu muôn đời:

Nước cũ Văn Lang mở

Vua đầu nước Việt xưa

Mười tám đời tiếp nối

Ba sông họp một bờ

Mộ Tổ trên đỉnh núi

Ðền thiêng, non tỏ mờ

Dân chúng chăm thờ phụng

Khói hương mãi đến giờ...

Trong những năm chống đế quốc Mỹ, nhà thơ Nông Quốc Chấn đã lên thăm Ðền Hùng trong thế đứng nhìn bốn phương trời đất với niềm tự hào dân tộc, tin tưởng vào con đường tương lai tươi sáng của đất nước, lời thơ đầy cảm khái:

Ðứng trên đỉnh núi Hùng

Nhìn bốn phương trời đất

Bốn ngàn năm sau lưng

Rực rỡ đường trước mặt

(Ðường trước mặt)

Với trường ca "Mặt đường khát vọng", nhà thơ Nguyễn Khoa Ðiềm lại suy tư nhiều về đất nước, về con cháu Tiên Rồng, về nơi cội nguồn dân tộc với đạo lý "Uống nước nhớ nguồn" - một truyền thống vô cùng quý báu, nhắc nhở mọi người hãy nhớ đến ngày Giỗ Tổ thiêng liêng, cúi đầu bái vọng:

Những ai đã khuất

Những ai bây giờ

Yêu nhau và sinh con đẻ cái

Dặn dò con cháu chuyện mai sau

Hằng năm ăn đâu, làm đâu

Cũng biết cúi đầu nhớ ngày Giỗ Tổ...

Từ "Truyền thuyết về hạt giống" - Nhà thơ Hữu Thỉnh lại nhớ tới tổ tiên lam làm vất vả, bảo tồn cuộc sống, mở ra văn minh châu thổ sông Hồng, khởi nguồn từ cây lúa nước:

Trăm thứ bánh biết làm nên thơm thảo

Trong mắt vua tôi vơi bớt màu rừng

Người yêu đất mình hơn vì đất sinh ra lúa

Lau sậy lùi xa, khi trận lội xuống đồng

Ðền Giếng - Khu di tích Ðền Hùng cũng là một đề tài được các nhà thơ gửi gắm nhiều tâm sự với hai nàng công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa. Nhà thơ Bàng Sỹ Nguyên lại ngồi mơ màng bên Giếng Ngọc để nghe lá mùa đi, tiếng vọng của thời gian sâu thẳm ngọn nguồn - Bài thơ giữa thực và ảo, gợi cho người đọc nhiều liên tưởng bâng khuâng:

Bên giếng tôi ngồi nghe lá rụng

Tự lòng sâu vọng tiếng thời gian

Công chúa làm nương về chải tóc

Cười với gương xanh má ửng hồng...

Còn nhà thơ Nguyễn Ðình Ảnh "Vào thăm Ðền Giếng" lại nghĩ về sức sống trường tồn của dân tộc: Bão giông giặc giã liên miên/Mà sao nước vẫn trong nguyên đến giờ, rồi băn khoăn tự hỏi: Ðứng bên miệng giếng sững sờ/Ai từng soi để bây giờ là tôi, cũng là một thoáng bâng khuâng giữa xưa và nay trong phút giây xao xuyến của người thơ với sự tiếp nối, kế thừa các thế hệ thơ chăng?...

Cũng viết về Ðền Giếng, nhà thơ Nguyễn Ðình Phúc lại có góc nhìn thời hiện tại, khi người ta thả xuống giếng những đồng tiền cầu lộc, cầu may liệu có trong sạch hay không? Công chúa về soi gương, chải tóc có thấy bóng dáng mình đâu vì tấm lưới chặn để hứng những đồng tiền ngăn cách:

Tấm lưới chặn - từ bi im tiếng

Công chúa về soi gương chẳng thấy đâu

Mỗi hạt bụi làm mờ tín ngưỡng

Ai phân bua trong tiếng động kinh cầu.

(Những đồng tiền thả vào giếng Ngọc)

Viết về Ðền Hùng, nhà thơ Bằng Việt lại nhớ tới người bà kể chuyện Lang Liêu hiếu thảo: Bà tôi chỉ thích việc đời có hậu/Suốt đời muốn tôi tin chuyện Lang Liêu - Và rồi quá nửa đời người chiêm nghiệm mới thấy cái giá phải trả cho truyền thuyết, ấy là ý nghĩa thực của cuộc đời: Tôi mất nửa đời trả giá cho truyền thuyết/Miếng bánh còn nguyên ý nghĩa ngày xưa (Bánh chưng, bánh dày).

Tương truyền xóm núi "Thậm Thình" là nơi dân làng giã gạo, làm bánh chưng, bánh dày để dâng tiến vua những ngày lễ hội, đã nhập vào hồn thơ Nguyễn Bùi Vợi. Ðây là một trong những bài thơ hay viết về Ðền Hùng với thể thơ lục bát khá nhuần nhuyễn, uyển chuyển như những khúc múa nhịp nhàng của các cô thôn nữ, những nàng tiên sa bên cối gạo đầy cả nghĩa tình nước non đối với Vua Hùng:

Trăm cô gái tựa tiên sa

Múa chày đôi với chày ba rập rình

Ðêm đêm tiếng thậm, tiếng thình

Cối gạo đầy cả nghĩa tình nước non

(Qua Thậm Thình)

Sau chiến thắng 30-4-1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, các nhà thơ áo lính trở về thăm Ðền Hùng - Mộ Tổ với niềm tự hào về dân tộc, về đất nước. Quá khứ và hiện tại - thời đại Hùng Vương và thời đại Hồ Chí Minh: Hai cánh thời gian đập sáng một con đường (Phạm Tiến Duật). Sau cuộc chiến trở về, nhà thơ quân đội Phạm Ngọc Cảnh lại có một đêm ngủ say sưa ở dưới chân núi Hùng, xin ai đó đừng lay động để rồi mai nơi nào gọi, người lính lại có mặt sẵn sàng đến giữ nơi biên cương, hải đảo của Tổ quốc:

Nhưng thôi, đêm nay cho mình được ngủ

Cuối Phong Châu sau cuộc chiến tranh này

Mai biên giới phía nào gọi tên mình đến giữ

Cũng xin đừng lay động giấc đêm nay.

(Ðêm nay mình ngủ cuối Phong Châu)

Nhà thơ quân đội Nguyễn Ðức Mậu sau mùa "áo trận" trở về, lại như con thuyền ngược dòng truyền thuyết trong mơ màng sương khói tâm linh, tìm lại ngọn nguồn: Trong Ðền Hùng tĩnh lặng khói hương rơi/Tôi như con thuyền trôi vào xanh thẳm/Ði ngược thời gian/Con thuyền trôi về bến/ Ði ngược thời gian/Tôi tìm lại ngọn nguồn (Khúc hát cội nguồn). Còn nhà thơ Hà Văn Thể, người con của quê hương rừng cọ, đồi chè, trước đền thờ Quốc Mẫu Âu Cơ ở núi Vặn Ðền Hùng, lại tự hào về sức sống trẻ trung của dân tộc và con cháu bây giờ ai cũng đẹp như hoa:

Núi Vặn từ đây xin gọi là núi Mẹ

Mẹ Âu Cơ bốn ngàn năm tuổi vẫn chưa già

Hóa vào đất đai này một màu xanh rất trẻ

Và cháu con bây giờ gương mặt như hoa.

(Trước đền thờ Quốc Mẫu)

Nhà thơ Nguyễn Hưng Hải, đã có một thời khoác áo lính "Trở về thăm Ðền Hùng" là ý thức trở về với cội nguồn lịch sử dân tộc, nơi có cột đá thề tự ngàn xưa, gắn liền với cột mốc biên cương, người lính nhận về mình để có thêm sức mạnh ra đi giữ gìn nơi biên cương thiêng liêng của Tổ quốc: Là người lính đã ngày đêm đứng gác/Cột mốc biên cương liền cột đá thề/Tôi trở lại Ðền Hùng trong chốc lát/Nhận về mình điều đó để ra đi. Ðấy là nghĩa vụ và trọng trách của người lính được Tổ quốc giao cho trong thời chiến cũng như thời bình.

Ðến đây, tôi lại nhớ đến cuộc thi thơ, nhạc về "Biển đảo Việt Nam" do Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Phú Thọ phối hợp với Hội Liên hiệp VHNT Phú Thọ tổ chức, chỉ trong thời gian ngắn đã có trên 400 bài thơ và một trường ca "Khát vọng biển" với hơn 1.000 câu thơ đầy chất sử thi. Hầu hết các bài thơ dự thi đều bắt nguồn từ cảm hứng cội nguồn. Ấy là từ bọc trứng Âu Cơ và cuộc phân ly 100 người con chia nhau xuống biển lên rừng mở mang bờ cõi của con cháu Tiên Rồng để đất nước thành hình hài một dải biển rộng, sông dài. Một nhà thơ đã viết: "Mẹ Âu Cơ - Xin mẹ cứ yên lòng". Chúng con xin bảo tồn chủ quyền của đất nước Vua Hùng đã có cương vực tự ngàn xưa.

Viết về Ðền Hùng, đất Tổ còn có nhiều bài thơ của các nhà thơ qua nhiều thế hệ hướng về cội nguồn như: Xuân Thủy, Chế Lan Viên, Nguyễn Xuân Sanh, Vũ Quần Phương, Ngô Văn Phú, Trinh Ðường, Nguyễn Ngọc Oánh, Nguyễn Phan Hách, Nguyễn Hoa, Nguyễn Trọng Tạo, Vương Trọng, Viễn Phương, Hoàng Quý, Vân Long, Lâm Thị Mỹ Dạ, Trần Thị Nương, Nguyễn Hữu Ðiền, Ngô Kim Ðỉnh... Mỗi bài thơ đều khai thác những thi tứ riêng từ mảnh đất cội nguồn, nhiều bài có ý tưởng hay, có sức khái quát cao để ngợi ca công đức các Vua Hùng đã có công dựng nước, đồng thời gửi gắm những tình cảm của mình đối với đất Tổ ngàn xưa đã có hai di sản văn hóa được thế giới vinh danh đó là "Hát Xoan" và "Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương".

Khép lại bài viết này, xin được trích "Lời mở" - Thơ Ðền Hùng của nhà thơ Hữu Thỉnh - Chủ tịch Ủy ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam: "Thơ viết về Ðền Hùng cũng là một thứ chính sử - Chính sử của tình người, chính sử của lòng dân. Bởi thi nhân xưa nay luôn được xem là người lĩnh xướng của tâm hồn dân tộc. Vẻ đẹp của thơ viết về Ðền Hùng là chống lại sự vong ân và đứt gẫy truyền thống"...

Vâng! Truyền thống của dân tộc ta là lòng yêu nước nồng nàn; là tri ân Tiên Tổ và những người có công lao với nước. Công đức các Vua Hùng và Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi mãi là nguồn cảm hứng vô tận của thơ ca và các loại hình nghệ thuật. Chúng ta luôn luôn ghi nhớ lời dạy của Bác Hồ trong dịp Người về thăm Ðền Hùng (9-1954): "Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước".

Thơ viết về Ðền Hùng cũng là một thứ chính sử - chính sử của tình người, chính sử của lòng dân. Bởi thi nhân xưa nay luôn được xem là người lĩnh xướng của tâm hồn dân tộc. Vẻ đẹp của thơ viết về Ðền Hùng là chống lại sự vong ân và đứt gẫy truyền thống.